Vào một sáng tháng Năm, năm 1862
ấy, khi chuyến xe lửa mang nàng lên miền Bắc, Scarlett
nghĩ thầm chắc Atlanta không đến nỗi nào buồn thảm
như Charleston và Savannah. Và mặc dù chẳng thích cô
Pittypat và Melanie, nàng cũng tò mò nhìn ra phía trước để
xem thành phố đã thay đổi ra sao sau lần thăm viếng cuối
cùng của nàng vào mùa đông trước khi có chiến tranh.
Atlanta luôn luôn là nơi yêu thích
đối với nàng hơn bất cứ thành phố nào khác, vì từ
lúc bé nàng đã nghe ông Gerald bảo rằng nàng và Atlanta cùng
một tuổi với nhau. Khi lớn lên, nàng khám phá ra rằng ông Gerald đã nói hơi quá sự thật phần nào vì thói quen
muốn phong phú hóa câu chuyện của ông.
Atlanta chỉ hơn
nàng chín tuổi, và điều nầy làm cho thành phố vẫn còn
trẻ trung một cách lạ thường so với những thành phố
khác mà nàng được biết .
Savannah và Charleston thật xứng
đáng với cái tuổi của chúng, một đã ở thế kỷ thứ
hai và một đang bước vào thế kỷ thứ ba. Và dưới đôi
mắt trẻ trung của nàng, chúng lúc nào cũng như những tổ
mẫu, phe phẩy quạt một cách bình lặng dưới ánh mặt
trời . Nhưng chính Atlanta mới thuộc về thế hệ của
nàng, xanh chua đúng nghĩa lại trẻ trung, ương ngạnh và
sôi động như chính nàng .
Chuyện ông Gerald kể dựa trên sự
kiện nàng và Atlanta cùng được đặt tên trong một năm.
Chín năm trước khi nàng ra đời, thành phố đầu tiên
mang tên là Terminus rồi sau đó là Marthasville, và nó chỉ
được chính thức gọi là Atlanta vào năm Scarlett được
sanh ra.
Ngày ông Gerald lên miền Bắc Georgia,
chẳng có một Atlanta nào, ngay cả cái bề ngoài cho ra vẻ
một ngôi làng cũng không và đất đai hoang dại . Nhưng
năm sau, 1836, chánh phủ cho phép thành lập một đường
xe lửa theo hướng Tây Bắc xuyên qua lãnh thổ của thổ
dân da đỏ Cherokee vừa nhượng lại .
Thiết lộ dự định
chạy tới Tennessee và miền Tây thật là rõ ràng và xác
định, nhưng khởi điểm đặt tại Georgia vẫn còn lờ
mờ, cho đến một năm sau, một viên kỹ sư cắm một cây
tiêu trong đất sét đỏ đánh dấu phần cuối cùng của
con đường nơi miền Nam. Và Atlanta chào đời với cái
tên Terminus, bắt đầu mở mang từ đó .
Lúc ấy chưa có xe lửa ở miền
Bắc Georgia, còn các nơi khác thì rất ít . Nhưng trong
những năm trước khi ông Gerald thành hôn với Ellen, một xóm
định cư nhỏ bé cách Tara hai mươi lăm dặm về phía Bắc
đã bắt đầu mở mang thành một ngôi làng và thiết lộ
cũng từ từ tiến về phía Bắc .
Rồi thì kỷ nguyên
thiết lộ thực sự bắt đầu . Từ đó thị cố cựu
Augusta, một con đường sắt thứ nhì vươn về phía Tây,
băng ngang tiểu bang để tiếp liền với con đường mới
đi Tennessee.
Từ thành phố Savannah già nua, thiết lộ thứ
ba đầu tiên đến Macon, ngay trung tâm Georgia, và sau đó
chạy lên miền Bắc xuyên qua hạt của ông Gerald đến
Atlanta, tiếp giáp với hai thiết lộ khác mở cho hải
cảng Savannah một xa lộ hướng về miền Tây. Từ một
giao điểm như Atlanta trẻ trung, người ta thiết lập một
thiết lộ thứ tư theo hướng Tây Nam đến Montgomery và
Mobile.
Được sanh ra bởi một thiết
lộ, Atlanta bành trướng theo đà mở mang thiết lộ đó .
Với sự hoàn tất bốn con đường, Atlanta bây giờ được
nối liền với miền Tây, thông với miền Nam, miền duyên
hải và qua Augusta nó còn được nối liền với miền Bắc
và miền Đông. Nó trở nên ngã tư du hành của bốn miền,
và ngôi làng nhỏ bé đã nhảy vọt một bước dài .
Không cần nhiều năm hơn tuổi
mười bảy của Scarlett, Atlanta vươn mình từ một cây
cọc cắm xuống đất thành một tiểu đô thị thịnh
vượng với mười ngàn dân, khiến cho toàn quốc chú ý .
Những thành phố lâu đời hơn, êm đềm hơn nhìn cái tân
đô thị náo nhiệt đó với cảm nghĩ của một con gà
mái ấp ra vịt con.
Tại sao nó khác xa những đô thị
khác của Georgia ? Tại sao nó phát triển quá mau như vậy
? Chỉ vì nó hoàn toàn không có gì cả để phó thác,
ngoài mấy thiết lộ và một đám dân chúng biết nỗ lực
xây dựng .
Những người đã thiết lập ra
cái thành phố lần lượt được gọi tên là Terminus,
Marthasville và Atlanta đúng là những người biết vươn
lên.
Không mệt mỏi, những người kiên trí đó từ những
phần đất xưa cũ của Georgia và từ những tiểu bang xa
hơn nữa đã tụ tập lại thành phố càng ngày càng mở
rộng ra chung quanh giao điểm của các thiết lộ trong lòng
nó .
Họ đến với nhiệt tâm. Họ thiết lập những cửa
hàng gần nhà ga, nơi năm con đường bùn lầy đất đỏ
gặp nhau. Họ xây những ngôi nhà tráng lệ dọc theo đường
Whitehall, Washington và dài theo giồng đất cao ráo, nơi
liên tiếp nhiều thế hệ vết giày của dân da đỏ đã
tạo thành một con đường mòn gọi là "đường mòn
Cây Đào".
Họ rất kiêu hãnh về thành phố của họ,
về sự phát triển của nó, tự đắc với chính họ đã
góp phần mở mang cho nó . Hãy để cho những đô thị già
nua muốn gọi nó là gì tuỳ ý . Atlanta không hề quan tâm
tới .
Scarlett bao giờ cũng thích Atlanta
vì chính những lý do mà Savannah, Augusta và Macon đã kết
án nó . Giống như chính nàng, đô thị nầy là sự pha
trộn giữa mới và cũ ở Georgia, trong đó cái cũ thường
bị đè bẹp trong những cuộc xung đột với cái mới
ngoan cố và nhiều nghị lực hơn. Có một cái
gì riêng tư khiến nàng cảm động đối với một thành
phố đã ra đời ... hay ít nhứt là đã được đặt tên
cùng một năm với nàng .
oOo
Đêm qua mưa lớn gió to nhưng khi
Scarlett vừa tới nơi, Atlanta đã ấm áp trở lại, ánh
nắng đang cố gắng hong khô mấy con đường quanh co đã
biến thành mấy lạch nước đỏ ngầu sau cơn mưa.
Khoảng
trống chung quanh nhà ga lầy lội và lồi lõm bởi sự qua
lại không ngớt của hành khách và hàng hóa đến nỗi
trông giống như một chuồng heo khổng lồ, đây đó vài
chiếc xe đã mắc lầy đến trục bánh .
Xe nhà binh, xe
cứu thương đậu thành một hàng dài không gián đoạn,
đang tiếp nhận và gởi đi các hàng hóa cùng thương binh
nơi một chiếc xe lửa, càng làm cho bùn đất lầy lụa
hơn.
Mấy người xà ích chửi rủa luôn miệng, và bước
chân của mấy con la bắn văng bùn tung toé .
Scarlett đứng trên bực thang thấp
nhất của toa xe lửa, hơi xanh, mặt xinh xắn trong tang
phục màu đen, khăn tang phất phới gần đụng gót . Nàng
hơi do dự, không muốn giẵm giày và nhúng vạt áo trong
bùn .
Nàng nhìn quanh những cổ xe ngựa lẫn lộn hai bánh
và bốn bánh tìm cô Pittypat, nhưng chẳng thấy người đàn
bà mập mạp với đôi má hồng hào ấy . Trong khi nàng
đang sốt ruột rảo mắt thì một lão da đen gầy còm,
nón cầm tay, râu màu muối tiêu, cung cách trang trọng,
bước qua vũng bùn tiến về phía nàng .
− Có phải bà là Scarlett không
?
Tôi là Peter, xà ích của bà Pitty.
Bà đừng đặt chân
xuống bùn .
Ông ta nói như ra lịnh khi thấy
Scarlett vén áo sửa soạn bước xuống .
− Bà cũng yếu như cô Pitty, cô
ấy giống như con nít, hễ chân ướt là bị đau ngay. Bà
để cho tôi ẵm bà qua.
Ông nhấc Scarlett lên thật dễ
dàng mặc dầu người ông quá gầy và đã khá trọng tuổi
. Thấy con Prissy đang bế đứa bé đứng trên sàn xe, ông
ngừng lại :
− Con bé giữ cậu nhỏ đó phải
không, bà Scarlett ?
Nó còn nhỏ quá làm sao coi chừng con
cậu Charles được ?
Nhưng thôi, hãy tính sau. Con nhỏ kia,
đi theo tao ! Đừng làm rớt cậu nhỏ nghe không !
Scarlett cứ để yên cho ông ẵm
ra cổ xe và ngoan ngoãn nghe những lời chỉ trích của ông
về nàng và Prissy.
Lúc họ vượt qua đám bùn với con
Prissy càu nhàu theo sau, nàng nhớ lại những điều Charles
đã nói về bác Peter nầy .
"Bác tham dự suốt trận đánh Mễ tây cơ với bố, săn sóc khi người bị thương... thật
ra, chính bác đã cứu bố thoát chết .
Chính bác Peter đã
nuôi nấng anh và chị Melanie, vì tụi anh còn nhỏ xíu lúc
ba má qua đời . Cô Pitty không hợp với chú Henry nên
trong thời gian đó, cô sống chung với tụi anh... Cô chẳng
được việc gì cả ... giống như một đứa trẻ to xác
ngoan ngoãn vậy thôi và bác Peter đối xử với cô như
với con nít vậy .
Cô chẳng làm nổi một việc gì dù để
tự cứu mạng mình cũng vậy, nên bác Peter phải gánh vác
mọi việc .
Chính ông là người đã quyết định tăng
thêm tiền trợ cấp cho anh khi anh 15 tuổi, và yêu cầu
cho anh được học ở Harvard khi anh qua hết trung học,
trong khi chú Henry thì muốn anh vào đại học của tiểu
bang.
Và ông cũng quyết định là Melly đã đến tuổi
phải vấn tóc lên và được đi dự tiệc tùng . Ông còn
nói cho cô Pitty biết khi nào trời lạnh hoặc ẩm quá thì
không thể đi thăm viếng ai, và nhắc cô khi nào phải
choàng khăn.
Bác ấy là người lanh lợi và tận tuỵ nhứt
trong số những người da đen mà anh từng biết . Chỉ
phiền một điều là bác ta chiếm trọn cả ba người
chúng anh, cả thể xác lẫn linh hồn . Chắc bác cũng biết
rõ điều ấy".
Những lời của Charles được
xác nhận ngay khi bác Peter leo lên xe và cầm lấy con roi.
− Cô Pitty không được khỏe
nên không thể đi đón bà . Cô sợ bà không hiểu nhưng
tôi nói với cô rằng cô và bà Melly sẽ bị bùn đất
làm dơ hết mấy cái áo mới, và tôi sẽ giải thích với
bà điều đó .
Bà Scarlett, bà nên ẵm đứa nhỏ thì hơn.
Con mọi nầy làm rớt cậu nhỏ bây giờ .
Scarlett nhìn Prissy và thở dài .
Prissy không kham nổi chức vụ vú em. Nó vừa được lên
chức, từ một đứa bé da đen gầy ốm với chiếc váy
ngắn trở thành nghiêm trang hơn với cái áo dài bằng vải
chúc bâu và cái khăn trắng bịt đầu .
Chức vụ mới
làm nó lúng túng, không bao giờ nó được địa vị cao
quí ấy sớm như vậy, nếu không vì nhu cầu chiến tranh
và sự đòi hỏi của ban quân nhu đối với Tara khiến
cho bà Ellen quá bận rộn đến nỗi không thể để Mammy,
Dilcey, ngay cả Rosa hay Teena theo Scarlett.
Con Prissy chẳng
bao giờ rời Tara hay Twelve Oaks quá một dặm, và chuyến
du hành bằng xe lửa, thêm vào đó sự đặc cách thăng
chức vú em đã hơi quá lắm đối với bộ óc ấu trĩ
chứa đựng trong cái sọ bé xíu đen đũi của nó .
Cuộc
hành trình hai mươi lăm dặm từ Jonesboro đến Atlanta đã
làm cho nó quá khích động đến đỗi Scarlett phải luôn
luôn trông chừng đứa bé . Bây giờ nhìn thấy quá nhiều
cao ốc và dân chúng đông đảo, Prissy càng hoang mang hơn.
Nó không ngớt quay qua, quay lại, chỉ trỏ, thấp tha thấp
thỏm và xốc đứa nhỏ tới nỗi nó phải gào lên thảm
hại .
Scarlett tiếc là không có cánh
tay mập mạp của Mammy ở đây. Bà chỉ cần ẵm đứa
nhỏ lên là nó nín ngay. Nhưng Mammy phải ở lại Tara còn
Scarlett thì không quen dỗ con. Nàng có ẵm thằng bé cũng
vô ích .
Nó sẽ hét lớn hơn khi nàng không bồng nó . Đã
vậy, nó sẽ còn bứt phá mấy sợi dây băng trên nón và
chắc chắn nó sẽ làm nhăn áo nàng . Nàng vờ như không
nghe lời khuyên của bác Peter.
"Có thể một ngày kia mình
sẽ biết về trẻ con. Nhưng chẳng bao giờ mình thích vui
đùa với chúng".
Scarlett bực mình nghĩ về chuyện
đó, trong khi chiếc xe lắc lư cố gắng vượt qua vũng
lầy quanh nhà ga. Và cho tới lúc mặt bé Wade tái ngắt vì
đã khóc hết hơi, nàng gắt gỏng bảo:
− Priss, đưa cho nó cái núm vú
trong túi mầy . Miễn sao cho nó nín . Tao biết nó đói
rồi, nhưng bây giờ chẳng làm gì được đâu.
Prissy lấy cái núm vú mà Mammy
mới trao cho nó hồi sáng, và đứa bé liền nín khóc .
Được yên tĩnh trở lại và với những cảnh tượng mới
mẻ nàng vừa thấy, Scarlett bắt đầu cảm thấy vui vui.
Khi chiếc xe ra khỏi vũng bùn, tiến vào đường Cây Đào,
nàng tìm lại được cảm giác yêu đời đã mất mát mấy
tháng qua. Thành phố đã phát triển quá đồ sộ ! Nó
không còn như khi nàng đến lần cuối vào năm trước .
Nàng không ngờ nổi là thị trấn Atlanta nhỏ bé kia lại
thay đổi nhiều đến thế .
Năm trước, bị chi phối bởi
quá nhiều phiền muộn riêng tư, bởi bực mình khi nghe
nhắc đến chiến tranh, nàng đã không biết rằng ngay
những phút đầu chiến tranh bùng nổ Atlanta đã biến đổi
rồi .
Cũng chính những thiết lộ đã biến thị trấn
nầy thành giao điểm của mọi dịch vụ thương mại
trong thời bình, bây giờ lại là những con đường chiến
lược sanh tử . Nằm thật xa chiến tuyến, thành phố và
hệ thống thiết lộ của nó đã làm một gạch nối giữa
hai đạo quân của Liên bang miền Nam, đoàn quân Virginia
với đoàn quân Tennessee và Tây bộ .
Ngoài nơi gặp gỡ
của các đạo quân với miền cực Nam, Atlanta còn là một
căn cứ tiếp liệu . Để đáp ứng nhu cầu chiến tranh,
Atlanta biến thành một trung tâm sản xuất, một tổng y
viện và là một trong những kho dự trữ thực phẩm và
quân trang, quân dụng cho các đoàn quân ngoài hỏa tuyến
.
Scarlett nhìn quanh để nhớ lại
cái thị trấn nhỏ bé mà nàng vẫn chưa quên. Tất cả
đều thay đổi . Cái thành phố hiện thời dưới mắt
nàng giống như một đứa bé chỉ qua một đêm đã biến
thành một gã khổng lồ bận rộn .
Atlanta nhộn nhịp như một tổ
ong, hãnh diện vì đã đóng một vai trò quan trọng trong
Liên bang miền Nam và làm việc ngày đêm, để biến đổi
từ lãnh vực nông nghiệp sang địa hạt kỹ nghệ . Lúc
chưa có chiến tranh, ở đây chỉ có lèo tèo vài nhà máy
sợi, dệt nỉ, vài cơ xưởng và binh xưởng của miền
Nam Maryland... và đó là những gì mà miền Nam rất tự
đắc .
Miền Nam chỉ sản xuất ra những chính khách và
chiến sĩ, nhà trồng trọt và bác sĩ, luật sư và thi sĩ,
nhưng chắc chắn không đào tạo kỹ sư hoặc chuyên viên
máy móc . Hãy để bọn Yankee chọn những nghề hạ tiện
như vậy . Nhưng bây giờ những hải cảng miền Nam đều
bị pháo hạm Yankee ngăn chận, chỉ có một ít hàng hóa
từ Âu châu vượt được màn lưới phong tỏa đó, và
miền Nam đành cố gắng chế tạo quân cụ lấy cho mình
.
Miền Bắc có thể kêu gọi thế giới cung cấp nhu yếu
phẩm và binh sĩ cho quân đội của họ . Hàng ngàn người
Ái nhĩ lan và Đức hăng hái gia nhập quân đội Bắc Mỹ
. Miền Nam thì phải tự xoay xở lấy .
Ở Atlanta, các xưởng đúc chậm
chạp sản xuất các động cơ để chế tạo chiến cụ
... thật chậm chạp, vì nó chỉ có một số rất ít
những máy móc có thể làm mẫu được, và hầu hết các
bánh trớn và bánh xe răng cưa chỉ có thể tạo được
theo những họa đồ của người Anh vượt vòng phong tỏa
.
Bây giờ có những bộ mặt lạ trên đường phố
Atlanta, và những công dân cách đây một năm thường vểnh
tai khi nhận ra một giọng nói miền Tây, bây giờ không
thèm lưu ý tới những thứ tiếng xa lạ của người Âu
đã vượt hàng rào phong tỏa để sang đây chế tạo máy
móc và sản xuất đạn dược cho Liên bang miền Nam. Và
nếu không nhờ tài năng của những người nầy, Liên
bang miền Nam đã phải gặp rất nhiều khó khăn trong việc
chế tạo súng lục, súng trường, đại bác và thuốc
súng .
Dường như trái tim của thành
phố cứ đập suốt ngày đêm, bơm chiến cụ lên đường
sắt cung cấp cho hai chiến tuyến .
Xe lửa gầm thét ra
vào thành phố suốt ngày . Từ những cơ xưởng mới xây
cất, khói đen tuôn nườm nượp trên những ngôi nhà
trắng .
Ban đêm, các lò vẫn rực lửa, tiếng búa còn
vang dậy thật khuya sau khi dân chúng đã ngủ say. Những
thửa đất bỏ trống năm trước, bây giờ trở thành các
xưởng sản xuất yên cương và giày da, công binh xưởng
sản xuất súng trường và đại bác, nhà máy cán và nhà
máy đúc làm đường sắt và toa xe hàng để thay thế
những thứ đã bị bọn Yankee phá hủy .
Sau hết là những
xưởng nhỏ chế tạo đinh thúc ngựa, hàm thiếc ngựa,
móc lều, nút áo, súng lúc và gươm. Các lò đúc đã bắt
đầu thấy thiếu sắt, vì chỉ có một số lượng sắt
rất nhỏ vượt được rào phong tỏa . Riêng các hầm mỏ
ở Atlanta hầu như ngưng hoạt động vì thợ mỏ đều ra
ngoài chiến tuyến .
Ở đây không còn rào sắt, nhà mát
bằng sắt, cửa sắt, hay đến cả những tượng sắt
trên sân cỏ cũng không, vì tất cả đều sớm chui vào
các lò nấu kim khí trong nhà máy cán kim loại .
Dọc theo đường Cây Đào và các
đường lân cận đều có các Bộ Chỉ huy của các binh
chủng . Văn phòng nào cũng đen nghẹt những người mặc
đồng phục, lính quân nhu, truyền tin, quân bưu, vận tải
thiết lộ và quân cảnh .
Ở ngoại ô có những trạm cấp
ngựa, nơi đây la và ngựa được nhốt trong những chuồng
rộng lớn, và hai bên đường là những y viện . Theo lời
của bác Peter, Scarlett có cảm tưởng rằng Atlanta chỉ là
một thành phố của thương binh, người ta không thể đếm
biết bao nhiêu những bịnh viện tổng hợp, bịnh viện
truyền nhiễm và trung tâm hồi phục . Và mỗi ngày, xe
lửa lại càng mang từ Five Points về những thương binh và
bịnh binh.
Thành phố nhỏ không còn nữa và
bộ mặt của đô thị tiến bộ nhanh chóng nầy đã trở
nên nhộn nhịp, hoạt động không ngừng nghỉ .
Cảnh tượng
náo nhiệt đó đã làm cho Scarlett, vốn quen thuộc với
cảnh nhàn rỗi và yên tĩnh, nhưng nàng vẫn yêu thích nó
dù muốn ngừng thở . Một không khí sôi động bao trùm
thành phố làm cho nàng cảm thấy chới với dường như
nhịp tim gấp rút của thành phố đang cùng một nhịp đập
với tim nàng .
Lúc chiếc xe chòng chành vượt
qua những hố bùn một cách chậm chạp để hướng về
phố chính . Nàng ghi nhận một cách thú vị các cao ốc
và những khuôn mặt mới .
Lề đường chật ních những
người mặc quân phục, đeo đủ cấp hiệu và huy hiệu
của ngành mình . Con đường hẹp đã chen chúc xe cộ ...
xe bốn bánh, xe mui trần, xe cứu thương, xe che mui của
quân đội với những gã xa phu thô lỗ luôn miệng chửi
rủa mấy con la đang cố rút chân ra khỏi chỗ lún .
Các
quân bưu viên mặc đồng phục xám phóng thật mau trên
đường, bắn bùn tung tóe . Họ di chuyển từ Bộ Chỉ
huy nầy sang Bộ Chỉ huy khác, mang các mệnh lệnh và các
điện tín hỏa tốc .
Những người vừa hồi phục khập
khễnh trên cặp nạng, thường thường có mỗi bà đi kèm
theo với vẻ lo âu; tiếng kèn, tiếng trống, khẩu lệnh
vang vang từ các thao trường, nơi đang huấn luyện các
tân binh.
Và Scarlett bỗng nghẹn thở khi lần đầu nhìn
thấy bộ quân phục màu xanh của quân Yankee lúc bác Peter
đưa ngọn roi chỉ về phía một đoàn quân thất thểu bị
lùa về ga xe lửa để chở tới trại giam dưới sự canh
gác của một toán binh sĩ Liên bang miền Nam, lưỡi lê
gắn đầu súng .
"Ồ, mình bắt đầu thích
sống ở đây rồi . Thật là náo nhiệt và thích thú !"
Lần đầu tiên, kể từ ngày dự dã yến, Scarlett cảm
thấy hài lòng thật sự .
Thật ra, thành phố còn sống
động nhiều hơn nàng tưởng, ở đây đã có tới vài
mươi quán rượu và theo sau quân đội là hàng loạt gái
điếm tràn vào, rồi các nhà chứa mọc lên như nấm gây
khiếp đảm cho bao nhiêu người mộ đạo .
Mỗi khách
sạn, mỗi nhà trọ và mỗi tư gia đều chật ních những
người khách phương xa tới để thăm viếng và săn sóc
thân nhân bị thương đang được cứu chữa trong các bịnh
viện to lớn của Atlanta.
Không tuần nào là không có
những hội hè, những cuộc khiêu vũ, các buổi tổ chức
phước thiện và vô số lễ cưới gấp rút vì chiến
tranh, với các chú rể được nghỉ phép mặc quân phục
bóng ngời, màu xám viền vàng cùng các cô dâu lộng lẫy
trong lớp nhung lụa lọt qua được màn lưới phong tỏa,
đem về từ các chuyến tàu .
Họ đi qua hàng rào danh dự
với hai hàng gươm tuốt trần giao nhau ở bên trên, họ
uống sâm banh và sụt sùi khóc chia tay.
Đêm đêm những
con đường hai bên có nhiều cây rậm luôn luôn rộn rịp
tiếng bước chân khiêu vũ và tiếng dương cầm thánh
thót từ các phòng khác vang ra với các giọng ca cao vút
hòa lẫn những giọng ca ồ ề của các binh sĩ được
mời tới cùng xướng họa những nhạc khúc bi ai, chẳng
hạn như "Tiếng kèn hưu chiến" và "Thơ em
tới nhưng trễ mất rồi", toàn là những điệu hoài
cảm dễ khiến những kẻ chưa hề biết khóc vì đau khổ
thật sự cũng rơi nước mắt .
Trong khi chiếc xe tiếp tục lăn
bánh trên con đường lầy lội, Scarlett hỏi không ngớt
miệng và bác Peter luôn luôn trả lời với ngọn roi chỉ
trỏ đó đây, hãnh diện phô bày sự hiểu biết của
mình .
− Đó là công binh xưởng, vâng,
thưa bà, ở đó mới có súng . Không, thưa bà, đó không
phải là tiệm buôn mà là các văn phòng coi về việc
phong tỏa .
Coi nào, bà Scarlett, bà biết đó là cái gì
không? Đó là chỗ mấy người ngoại quốc tới mua bông
vải của mình rồi từ Charleston và Wilmington đem bán ra
ngoài và chở trở về với thuốc súng .
Không, thưa bà,
tôi không rõ họ là người nước nào . Cô Pitty nói họ
là người Ái nhĩ lan nhưng không ai biết họ nói gì .
Đúng đó, thưa bà, khói dữ quá và làm hư hết mấy tấm
màn tơ của cô Pitty. Khói đó là của lò đúc và xưởng
cán kim khí .
Trời, ban đêm nó kêu ầm ầm ! Không ai ngủ
được . Không được đâu, tôi không thể dừng xe để
cho bà xem đâu.
Tôi đã hứa với cô Pitty là sẽ đưa
thẳng bà về nhà ... bà Scarlett, bà chào người ta đi !
Đó là hai bà Merriwether và bà Elsing. Người ta đang chào
bà đó .
Scarlett mơ hồ nhớ có hai bà
mang tên đó đã từ Atlanta tới Tara dự lễ cưới của
nàng và họ đều là bạn thân của cô Pittypat.
Nàng mau
mắn quay người lại cúi chào . Hai bà đang ngồi trên một
tiệm hàng vải . Chủ tiệm và hai nhân công đang đứng
trên lề đường trình bày một lô xấp hàng ôm trên tay.
Bà Merriwether người cao lớn và mập mạp, đã siết thắt
đai yếm quá độ đến nỗi ngực bà nhô ra trông chẳng
khác mũi tàu .
Tóc đã xám như màu sắt bà lại còn quấn
thêm vào một cuộn tóc giỏ màu nâu, bất cần để ý
đến chuyện hai sắc tóc đối chọi nhau kỳ dị . Khuôn
mặt tròn trịa hồng hào của bà biểu lộ tánh tình chất
phác, lanh lợi, đồng thời cũng phản ảnh thói hay sai
khiến . Bà Elsing còn trẻ hơn, vóc người mảnh khảnh,
đã một thời là hoa khôi, vẫn giữ được đôi chút
tươi mát còn sót lại với dáng điệu kiểu cách thanh
lịch .
Hai bà nầy và một bà khác mang
tên Whiting đều là những trụ cột của Atlanta. Họ cai
quản ba ngôi giáo đường, trông coi luôn các hàng tu sĩ,
các ca đoàn và những người trong giáo khu.
Họ tổ chức
những buổi lễ phước thiện và chủ tọa các hội may
vá, điều khiển các cuộc dạ vũ và những buổi ăn
ngoài trời . Họ lại còn phân định đám nào xứng đôi
vừa lứa, đám nào không, họ cũng biết kẻ nào đã lén
lút uống rượu, những ai sắp có con và tới lúc nào mới
đi sanh.
Họ là những người biết rõ từng chi tiết về
phổ hệ của mọi gia đình ở Georgia, Nam Carolina và
Virginia, và bất cần để ý tới các người ở những
tiểu bang khác vì cho rằng ngoài ba nơi vừa kể, chẳng
còn một chỗ nào có được một ai xứng đáng .
Họ kiêm
luôn cả việc nhận định thế nào là hạnh kiểm đáng
khen và thế nào là những hành vi xấu .
Điều đáng nói
là họ chẳng bao giờ quên phát biểu ý kiến riêng, tự
cho đó là mực thước ... bà Merriwether thì lúc nào cũng
rống to, bà Elsing thì bằng một giọng kiểu cách lê thê
còn bà Whiting thì cứ như thì thầm một cách chán chường,
ra điều mình không mấy thích nói tới những chuyện đó
. Cả ba bà đều ghét nhau và không bao giờ tin cậy lẫn
nhau y hệt tình trạng của các chấp chánh quan trọng tổ
chức Tam Đầu Chế đầu tiên ở La mã, và sự liên kết
của họ có lẽ cũng vì nguyên do đó .
Bà Merriwether mỉm cười:
− Tôi đã nói với Pitty là tôi
sẽ mượn cháu vào làm việc trong bịnh viện của tôi.
Nhớ đừng có hứa với bà Meade hay bà Whiting!
− Thưa, không đâu.
Scarlett trả lời, chẳng nghĩ gì
tới ý nghĩa câu nói của bà Merriwether mà chỉ cảm thấy
ấm áp vì được săn đón và mời mọc .
Nàng nói tiếp:
− Rất mong được gặp lại bà
.
Xe tiếp tục lăn bánh và phải
ngừng lại một lúc để nhường chỗ cho hai phụ nữ tay
ôm những thúng đựng đầy băng cứu thương dò từng
bước một đi qua trên con đường lài trơn trợt .
Đúng
ngay lúc đó, Scarlett bỗng chú ý đến một người mặc y
phục rực rỡ trên lề đường - quá rực rỡ để mặc
đi ngoài phố - với chiếc khăn choàng loại nỉ mềm mại
Tô cách lan dài chấm gót .
Quay đầu lại, nàng nhận ra
đó là một thiếu phụ cao lớn, khá đẹp với khuôn mặt
dạn dĩ và mái tóc đỏ chói, quá đỏ để có thể tin
là màu tóc thật . Đây là lần thứ nhứt nàng nhìn tận
mắt một người đàn bà chắc chắn đã có "làm một
cái gì trên tóc" và nàng nhìn ả ta một cách mê mẩn
.
Nàng thì thầm hỏi:
− Bác Peter, ai vậy ?
− Tôi không biết .
− Bác biết mà . Ai vậy ?
− Tên là Belle Watling.
Peter vừa đáp vừa xệ môi dưới
xuống . Scarlett hiểu ra ngay vì bác ta không nói tới tiếng
"cô" hay "bà" để nói về người đó .
− Nhưng là ai mới được ?
Peter sầm mặt, quất roi lên mình
ngựa:
− Bà Scarlett, cô Pitty không
thích bà đặt những câu hỏi không dính líu gì tới bà
. Ở đây bây giờ có không biết bao nhiêu người không
cần phải nói tới .
"Trời đất!" Scarlett im
lìm nghĩ "chắc là một phụ nữ đồi trụy".
Nàng chưa hề nhìn thấy một
người đàn bà đồi truỵ nào cả nên ngoái đầu nhìn
theo cho tới khi ả kia khuất dạng trong đám đông.
Các gian hàng và cơ sở quân sự
lúc nầy đã ở cách nhau rời rạc, con đường còn nhiều
thửa đất trống hai bên.
Cuối cùng, khu thương mãi đã
lùi lại phía sau và khu tư gia hiện ra trước mắt .
Scarlett nhận ra những ngôi nhà quen thuộc, nhà của Leyden
- bệ vệ oai nghiêm, nhà họ Bonnell với những chiếc cột
trắng và cửa lá sách xanh, nhà của gia đình Mac Lure xây
bằng gạch đỏ luôn luôn kín cửa sau hàng giậu hoàng
dương.
Xe phải đi chậm lại vì có nhiều người gọi
Scarlett từ các mái hiên, từ các khu vườn và cả những
người trên lề đường cũng chào hỏi nàng .
Trong số
những người đó có một ít nàng quen biết sơ sài, một
số chỉ mang máng nhớ ra, còn phần lớn đều xa lạ .
Vậy là cô Pittypat đã loan báo cùng khắp về chuyện nàng
tới Atlanta. Nàng phải lần lượt trao thằng bé cho hết
bà nầy tới bà khác .
Họ đã không ngần ngại giẫm bừa
vào bùn tới tận xe nàng để ôm lấy thằng bé, khen ngợi
và hôn hít .
Tất cả đều đòi hỏi nàng phải gia nhập
các hội may vá, đan thêu và các ủy ban bịnh viện của
họ, nhứt là không được hứa với bất cứ ai.
Thế là
nàng phải hứa bừa với từng người .
Khi họ đi qua một ngôi nhà tường
xanh, lợp ngói, một con nhỏ da đen đang đứng canh chừng
trên thềm la lên: "Bà ấy tới rồi" thì bác sĩ
Meade cùng vợ và đứa con trai Phil, mười ba tuổi chạy
ra chào hỏi rối rít .
Scarlett nhớ là họ đã có dự hôn
lễ của nàng . Bà Meade leo đứng lên đòn xe của xe bà
nghểnh cổ để nhìn rõ đứa con nàng .
Phần bác sĩ
Meade ông chẳng ngại bùn lầy, lội ra đến tận xe
Scarlett. Ông hơi cao và gầy, chòm râu nhọn ở càm xám
như màu sắt, quần áo rộng thùng thình bay phần phật
giống như chúng vừa bị một cơn gió thổi mắc vào
người ông.
Atlanta xem ông như nguồn gốc của một sức
mạnh và cẩn trọng, bởi thế chẳng có gì đáng ngạc
nhiên khi ông thu phục được lòng tin của họ . Nhưng mặc
dầu có thói quen hay tiên đoán và hay tự phụ, ông vẫn
là người xứng đáng của thành phố .
Sau khi bắt tay Scarlett và khều
vào bụng Wade, khen ngợi nó, bác sĩ báo cho nàng biết cô
Pittypat thề sẽ không để cho nàng phục vụ ở dưỡng
đường hay hội quấn băng nào khác ngoài hội của bà
Meade. Scarlett kêu lên:
− Chết chưa, tôi đã lỡ hứa
với cả ngàn bà khác!
Bà Meade bất bình:
− Vậy là bà Merriwether lại xen
vào . Tồi quá! Chắc chắn là bà ấy đứng đợi từ
chuyến xe lửa tới .
Scarlett thú nhận:
− Tôi đã hứa vì chẳng có ý
niệm gì về những chuyện đó . Mà uỷ ban bịnh viện là
cái gì vậy ?
Hai vợ chồng bác sĩ hơi ngượng
vì sự dốt của nàng . Bà Meade giải thích:
− Cháu cứ mãi sống ở đồng
quê dĩ nhiên là không biết được . Chúng ta đã thành
lập nhiều hội nữ điều dưỡng cho các dưỡng đường
và hoạt động vào những ngày khác nhau. Chúng ta săn sóc
thương binh, giúp đỡ bác sĩ cuộn băng, giặt quần áo
và khi thương binh đã đủ sức xuất viện, chúng ta sẽ
mang họ về nhà riêng để tĩnh dưỡng cho đến khi nào
họ có thể trở về đơn vị được . Chúng ta còn phải
chăm sóc vợ con của những thương binh nghèo khổ ... phải
nói là bần cùng mới đúng . Ông Meade làm việc ở y
viện, nơi ủy hội của tôi đang hoạt động, ai cũng nói
ông là một bàn tay mầu nhiệm và ...
Bác sĩ Meade âu yếm ngắt lời
vợ:
− Đó ... thôi bà! Đừng nên
đem tôi ra khoe khoang trước mặt người khác chớ . Tôi
có làm gì đáng kể đâu, bởi vì bà không chịu cho tôi
ra mặt trận mà .
Bà Meade giẫy nẩy:
− Không để ông đi! Ông đổ
cho tôi hả ? Cả thành phố không chịu để ông đi chớ
có phải tôi đâu, ông biết mà . Cháu Scarlett nghĩ coi,
khi hay tin ông muốn đi Virginia làm quân y sĩ giải phẫu,
các bà đều ký tên vào một thỉnh nguyện thơ, yêu cầu
ông ở lại . Dĩ nhiên là thành phố nầy không thể làm
được việc gì nếu chẳng có ông.
Bác sĩ lại ngắt lời, hiển
nhiên xúc động bởi lời ca tụng của vợ:
− Nữa, bà lại nói vậy . Có
lẽ đã có một thằng con ra trận là cũng đủ rồi .
Thằng bé Phil la lên, tràn trề
hy vọng:
− Năm tới con cũng đi! Con sẽ
giữ trống . Con biết cách đánh trống rồi . Ba má muốn
nghe con đánh trống không? Để con lấy trống ra.
− Không, bây giờ chưa được,
năm tới cũng vậy nữa, con! Có lẽ phải tới năm kia.
Bà Meade kéo con vào lòng, mặt
chợt hiện nét lo âu. Phil đẩy bà ra:
− Đợi tới đó thì hết chiến
tranh rồi còn gì . Má đã hứa với con mà .
Scarlett nhận thấy cả hai ông bà
nhìn nhau lo ngại . Darcey Meade đang chiến đấu ở
Virginia, bởi thế họ càng cố giữ đứa con trai duy nhứt
còn lại .
Bác Peter hắng giọng:
− Cô Pitty không được khỏe
lúc tôi đi, nếu tôi không về sớm, chắc cô ấy lại
ngất .
Bà Meade chào:
− Tạm biệt cháu, chiều nay tôi
sẽ đến thăm, cháu nhớ nói dùm với Pitty là nếu cháu
không gia nhập ủy hội của tôi, bà ấy sẽ khổ với
tôi đó .
Cổ xe vọt tới và lướt đi
trên con đường trơn trợt .
Scarlett dựa vào nệm mỉm
cười . Lần đầu trong mấy tháng nay, nàng mới thật sự
cảm thấy dễ chịu .
Với số dân đông đúc, nhộn nhịp
và làn sóng khích động ngấm ngầm, Atlanta thật là thú
vị, sôi động và xinh đẹp hơn vùng đồn điền heo hút
của Charleston, nơi đêm đêm chỉ nghe có tiếng cá sấu,
nơi suốt ngày chỉ quanh quẩn mộng mơ trong những khu
vườn có tường cao vây kín .
Atlanta cũng có nhiều sinh
khí hơn Savannah, nơi chỉ có những con đường rộng thênh
thang, hai bên toàn là dừa với con rạch bùn lầy bên cạnh
. Phải, ngay lúc nầy nó còn đẹp hơn cả Tara, cho dầu
Tara đã chiếm một địa vị quan trọng đối với nàng
cũng vậy .
Có một cái gì phấn khởi bao
trùm thành phố với những con đường bùn lầy chật
chội, những ngọn đồi trọc đất đỏ bao quanh, một
cái gì non nớt và thô bạo như bản chất thô bạo và
non nớt của nàng được che phủ bởi lớp vỏ dịu dàng
mà Mammy và bà Ellen đã cố tạo ra.
Đột nhiên nàng nhận
ra, đây chính là nơi nàng mong mỏi, không trầm lặng êm
ả như tánh chất của những thành phố cũ buồn tẻ bên
cạnh những dòng sông nước đục ngầu .
Nhà cửa lần lần thưa thớt
hơn. Scarlett nghiêng đầu ra nhìn ngôi nhà gạch đỏ, mái
lợp đá đen của cô Pittypat.
Gần như đây là ngôi nhà
cuối cùng ở về phía Bắc thành phố . Xa hơn nữa, con
đường Cây Đào thu hẹp lần và quanh co dưới những
tàng cây khổng lồ, rồi mất hút trong khu rừng dầy bịt,
im lìm .
Hàng rào cây vừa được sơn trắng và sân trước
lốm đốm vàng với những đóa hoa trường thọ cuối mùa
.
Trên thềm đã có hai người đàn
bà mặc đồ đen đứng đợi, phía sau là một người đàn
bà mập mạp màu da vàng ẻo đang nhe răng cười, hai tay
thọc vào trong chiếc khăn.
Cô Pittypat béo tròn cứ lắc
la lắc lư trên đôi chân bé xíu, một bàn tay đè trên
ngực để trấn áp nhịp tim đang đập rộn .
Nhìn thấy
Melanie đang đứng bên cạnh cô, Scarlett ghê tởm nghĩ
chính con bé gầy gò trong bộ tang phục kia sẽ là chướng
ngại của nàng ở Atlanta nầy . Nàng cũng nhận thấy mấy
lọn tóc đen lơ thơ của Melanie đã được vén lên cao
gọn gàng, đúng tư cách của người đã có chồng và đón
tiếp nàng với một nụ cười âu yếm, nét sung sướng
hiện rõ trên khuôn mặt hình trái tim.
oOo
Khi một người miền Nam chịu
khó sắp xếp hành lý và đã đi khoảng hai mươi dặm để
thăm ai, cuộc viếng thăm ấy ít khi ngắn hơn một tháng,
thường thì lâu hơn.
Người miền Nam rất thích được
làm khách và đãi khách . Không hiếm người thăm bà con
vào dịp Giáng sinh thường ở nán lại cho tới tháng bảy
.
Những cặp vợ chồng mới cưới đi hưởng tuần trăng
mật, có khi kéo dài thời gian cư trú nơi họ thích cho
đến khi đứa con thứ hai của họ ra đời . Thường
thường những bà cô, ông bác già đến chơi nhà con cháu
vào một chúa nhựt nào đó đã ở lại luôn vài năm sau
cho đến khi người ta đưa họ xuống mồ .
Chuyện khách
khứa không thành vấn đề ở miền Nam. Hầu hết nhà cửa
đều quá rộng lớn, gia nhân đông và việc nuôi thêm
nhiều miệng ăn chỉ là việc thứ yếu trong miền đất
sung túc nầy .
Bất cứ ở tuổi nào, phái nào, ai ai cũng
có thể đi thăm viếng, chẳng hạn như những cặp vợ
chồng hưởng tuần trăng mật, các bà mẹ trẻ đi khoe
con mới sanh, người đang dưỡng bịnh, những kẻ mồ
côi, các cô gái mà cha mẹ muốn cho xa lánh những cuộc
hôn nhân không môn đăng hộ đối, các thiếu nữ đã gần
tới tuổi ế chồng nguy hiểm và hy vọng tìm được một
hôn phu xứng đáng nhờ sự mai mối của họ hàng nơi
khác . Khách khứa làm sôi động và biến đổi nhịp sống
đều đều của miền Nam cho nên tất cả đều được
tiếp đón niềm nở .
Do đó, Scarlett đến Atlanta mà
không biết rằng mình sẽ nấn ná lại bao lâu. Nếu
chuyện viếng thăm của nàng cũng tẻ nhạt như ở
Savannah và Charleston, có lẽ nàng sẽ trở về sau một
tháng . Nếu được hài lòng, nàng có thể ở lại một
thời gian vô định . Nhưng chưa được bao lâu, cô Pitty
và Melanie đều cùng khuyên Scarlett hãy ở lại luôn với
họ .
Họ viện nhiều lý do có thể chấp nhận được .
Họ muốn ở gần nàng vì họ thương yêu nàng . Họ cô
độc và luôn luôn hồi hộp lo âu trong căn nhà rộng lớn
nầy trong khi Scarlett thừa dạn dĩ để làm cho họ bớt
sợ hơn. Vả lại, nàng cũng rất duyên dáng đủ để an
ủi sự phiền muộn của họ . Hiện thời Charles đã
chết, chỗ của nàng và con nàng phải là gia quyến
Charles.
Hơn nữa, theo di chúc của Charles, phân nửa ngôi
nhà nầy thuộc về nàng . Lý do sau cùng là Liên bang miền
Nam cần tới những bàn tay để may vá, đan thêu, quấn
băng và săn sóc thương binh.
Chú của Charles, ông Henry
Hamilton, sống độc thân trong khách sạn Atlanta gần nhà
ga cũng nghiêm trang bàn với Scarlett về vấn đề nầy .
Chú Henry thấp bé, bụng to là một ông già khó tính, mặt
hồng hào, tóc để dài trắng phếu . Chú thường gắt
gỏng với những người đàn bà nhút nhát hay nói nhảm .
Đó là lý do khiến chú ít khi nói chuyện với em gái, cô
Pittypat. Từ nhỏ, họ đã hoàn toàn bất đồng về tánh
khí và càng ngày họ càng mất thêm thiện cảm với nhau
bởi những lời phản đối của ông về cách giáo dục
Charles của cô Pittypat. Có lần ông chú nói toạc ra:
− Biến đứa con trai của một
chiến sĩ thành một thằng lại cái mà coi được à ?
Mấy năm trước, chú không ngớt
mắng chửi cô Pitty cho đến nỗi tới ngày nay cô chẳng
bao giờ nói gì về chú, ngoài những lời thì thầm kín
đáo đủ khiến cho một người lạ có thể nghĩ rằng vị
luật sư khả kính kia chính là một kẻ sát nhân.
Chuyện
đó xảy ra một hôm khi cô Pitty muốn rút năm trăm đô-la
trong phần gia tài của cô do chú giữ để hùn vào một
mỏ vàng chưa thành hình .
Chú Henry từ chối, giận dữ
mắng là đầu óc cô không hơn gì đầu óc của một con
bọ . Chú lại còn nói thẳng ra là không thể nào chịu
nổi khi ngồi gần cô năm phút .
Kể từ ngày đó, cô chỉ
gặp chú mỗi tháng một lần, khi bác Peter chở cô đến
văn phòng của chú để lấy tiền chi dụng trong nhà .
Sau những lần gặp gỡ ngắn
ngủi ấy, cô Pitty thường hay nằm luôn cả ngày trên
giường để khóc và hít thuốc khỏe .
Melanie và Charles
rất thuận thảo với chú, thường đề nghị để họ
đứng ra dàn xếp mối gay cấn đó nhưng cô Pitty luôn
luôn mím chặt cái miệng trẻ con của cô và từ khước
. Henry là nỗi khổ của cô và cô muốn tự gánh lấy .
Từ đó, Melanie và Charles khám phá rằng cô của họ cảm
thấy hài lòng thật sự về những cảm xúc thỉnh thoảng
có một lần, bởi vì đó là những xúc động duy nhứt
trong cuộc sống quá bình lặng của cô.
Chú Henry thích Scarlett ngay vì
theo lời ông, ông có thể nhận thấy bên trong cái kiểu
cách ngớ ngẩn, nàng còn có một ít thông minh. Không
những ông quản thủ tài sản của Pitty và Melanie mà còn
luôn cả tài sản của Scarlett do Charles để lại .
Scarlett hết sức ngạc nhiên khi biết mình là một thiếu
phụ khá giả vì chẳng những Charles đã để lại cho
nàng một nửa ngôi nhà của cô Pitty mà còn một số đất
nông trại và bất động sản trong thành phố nữa .
Thêm
vào đó là những kho hàng và cửa tiệm dọc theo đường
xe lửa, gần nhà ga, một phần thuộc về quyền thừa kế
của nàng .
Từ ngày có chiến tranh trị giá của những
thứ đó đã gia tăng gấp ba lần . Khi chú Henry giao cho
nàng bảng kết toán di sản, ông bàn luôn với nàng về
chuyện ở luôn lại Atlanta. Ông nói:
− Khi Wade Hampton trưởng thành,
nó sẽ là một thanh niên giàu có . Cứ theo cái đà phát
triển của Atlanta hiện nay, tài sản của nó sẽ có giá
trị mười lần hơn trong hai mươi năm tới . Và chẳng
còn gì đúng hơn việc một đứa bé được nuôi dưỡng
ngay nơi có tài sản của nó, vì nó cần phải học cách
chăm sóc sản nghiệp của mình ... ừ luôn cả gia tài của
Pitty và Melanie nữa . Nó sẽ là người đàn ông độc
nhứt mang họ Hamilton ở đây... chú chẳng còn sống được
bao lâu nữa .
Về phần bác Peter, bác coi chuyện
Scarlett ở luôn lại là chuyện tất nhiên. Bác không nghĩ
tới việc đứa con duy nhứt của Charles có thể được
nuôi nấng và dạy dỗ ở một nơi nào khác mà không có
sự chăm sóc của bác .
Trước những lý lẽ đó, Scarlett
chỉ cười chớ không nói gì cả . Nàng không muốn hứa
hẹn điều gì trước khi tìm hiểu xem mình có thể thích
Atlanta và hòa hợp được với chị chồng hay không.
Nàng
cũng biết là cần phải có sự ưng thuận của bà Ellen và
cả ông Gerald nữa . Hơn thế nữa bây giờ nàng đã xa lìa
Tara, nàng cảm thấy nhớ kinh khủng, nhớ cánh đồng đất
đỏ và những đọt lá non bông vải xanh rì, cùng những
buổi chiều tàn êm đềm và yên tĩnh .
Lần đầu tiên,
nàng ý thức được một cách lờ mờ về ý nghĩa lời
nói của cha khi ông bảo rằng trong huyết quản của nàng
đã có sẵn tình yêu đất .
Bởi thế nàng lịch sự tránh né
những câu trả lời xác định về thời hạn lưu ngụ
trong chuyến thăm viếng nầy và làm quen một cách dễ
dàng với đời sống trong ngôi nhà gạch đỏ ở cuối
đường Cây Đào yên tĩnh đó .
Sống chung với thân quyến của
Charles, nhìn thấy nơi đã đào tạo nên anh, Scarlett mới
hiểu được phần nào về người con trai đã biến nàng
thành đàn bà, thành góa phụ rồi sau đó là một bà mẹ
trong một thời gian nhanh chóng .
Nàng cũng dễ dàng nhận
ra tại sao Charles lại quá rụt rè, quá ngây thơ và thiếu
thực tế như vậy . Nếu Charles đã thừa hưởng ở người
cha chiến sĩ dòng máu nghiêm nghị, dũng cảm và nóng nảy,
thì cũng ngay từ lúc nhỏ dòng máu anh hùng đó đã bị
tẩy sạch bởi cái không khí đàn bà mà anh đã sống và
lớn lên trong đó .
Anh đã hết lòng với cô Pitty tánh
còn trẻ con, anh gần gũi với Melanie hơn mấy người anh.
Đối với Charles đó là hai người đàn bà dịu dàng nhứt
trên đời .
Sáu mươi năm trước, cô Pitty đã
được chào đời với cái tên là Sarah Jane Hamilton, nhưng
từ ngày người cha thân yêu của cô đã đeo dính cho cô
cái hiệu Pitty ấy, vì cái điệu bộ lăng xăng hiếu động
của cô trên đôi chân quá nhỏ, đến nay chẳng ai còn
gọi cô tên nào khác nữa .
Những năm sau lần đặt tên
thứ hai đó, đã có nhiều thay đổi xảy ra khiến cho các
biệt danh ấy trở nên không còn thích hợp nữa . Lúc nhỏ
cô đi đứng mau lẹ nhưng đến bây giờ cô chỉ còn giữ
lại hai bàn chân quá nhỏ, không cân xứng với sức nặng
của cô, lại còn cái tật hay nói trăng nói cuội như trẻ
con.
Người đẩy đà, má hồng hào và tóc bạc trắng, cô
luôn luôn như nghẹn thở vì siết quá chặt dây áo nịt
.
Cô không thể bước xa hơn một dãy nhà trên đôi chân
bé nhỏ nhét chật cứng trong đôi giày cũng quá nhỏ .
Hơi xúc động một chút là tim cô đập loạn lên, nhưng
cô lại thích vậy và chẳng chút xấu hổ nào, cho nên cô
cứ ngã ra bất tĩnh, bất luận bởi sự khích động nào
.
Mọi người đều biết mấy vụ
ngất xỉu của cô chỉ là những giả vờ của các bà
quí phái, nhưng họ cũng mến cô nên chẳng nói ra. Tất
cả đều mến cô và xử sự với cô như với một đứa
bé - chỉ trừ một người và người đó là Henry - anh
của cô.
Cô thích nói lăng nhăng hơn là
những chuyện bàn tán cũng khá thích thú trong bữa ăn. Cô
có thể nói tía lia hàng giờ một cách vô hại về chuyện
của những người khác, cô cũng không nhớ tên tuổi,
ngày tháng hay nơi chốn của việc gì hay của ai, và
thường lẫn lộn các danh tánh của tài tử ở Atlanta với
một nơi khác, và điều đó cũng chẳng khiến ai phải
bận tâm. Không một ai muốn nói chuyện gì có vẻ khích
động hoặc bêu riếu với cô, bởi vì cuộc sống gái
già của cô cần phải được bảo vệ mặc dầu cô đã
tới tuổi lục tuần, và những bạn bè của cô đều vui
vẻ ngấm ngầm là cứ coi cô như một đứa bé được
nuông chiều .
Melanie giống cô trên nhiều
phương diện . Nàng cũng nhút nhát, dễ thẹn thùng và quá
khiêm nhường như cô. Tuy nhiên, nàng vẫn có một khiếu
nhận thức riêng.
Scarlett bất đắc dĩ nhìn nhận "Trên
phương diện nào đó mình không thể coi thường chị ta".
Cũng như cô Pitty, nét mặt của Melanie vẫn là của một
đứa trẻ chẳng bao giờ chạm trán những gì khác hơn là
cái tâm hồn mộc mạc và khoan thứ, sự thật và tình
thương - một đứa bé chẳng bao giờ nhìn thấy những
chuyện tàn nhẫn, đồi bại và cho dầu có chứng kiến
đi nữa, đứa bé đó cũng chẳng nhận ra như thế .
Lúc
nào cũng cảm thấy tràn trề hạnh phúc, Melanie muốn cho
mọi người chung quanh đều có hạnh phúc, hay ít lắm là
cũng bằng lòng với số phận của họ. Trong chiều hướng
đó, nàng luôn luôn thấy cái hoàn thiện ở mọi người
.
Nơi một con ở đần độn mấy nàng cũng có thể tìm
thấy một chút gì trung thành và dễ thương, nơi một cô
gái xấu xí và khó chịu đến đâu, nàng cũng tìm được
vài nét duyên dáng hay thanh nhã và ở một người đàn
ông vô dụng hay gắt gỏng, nàng cũng thấy được những
điều tốt mà họ có thể thực hiện được hơn là
những gì kẻ ấy đang làm .
Vì những đức tính chân thành
và tự nhiên xuất phát từ tấm lòng quảng đại đó mà
ai cũng đến với nàng .
Còn ai có thể cưỡng lại được
sự mê hoặc của một người chỉ tìm thấy ở kẻ khác
những tánh tình đáng phục mà ngay họ cũng không dám mơ
ước ? Nàng có thật nhiều bạn trai và bạn gái hơn bất
cứ ai trong thành phố, nhưng nàng chỉ được rất ít
người si mê vì chẳng có lấy một chút ương ngạnh hoặc
ích kỷ nào để có thể mê hoặc đàn ông.
Những gì Melanie đã làm không
ngoài những điều mà các cô gái miền Nam đã được dạy
bảo để làm cho những người chung quanh họ cảm thấy
thoải mái và thích thú hơn.
Đó là một sự toa rập đáng
yêu của nữ giới làm cho xã hội miền Nam trở nên thú
vị . Phụ nữ miền Nam biết rằng một vùng đất mà đàn
ông đã binh vực, đã hài lòng và đã được sống an
toàn trong lớp vỏ tự phụ không hề bị chỉ trích của
họ thì đó cũng là nơi mà đàn bà cho là đáng sống .
Vì từ lúc ra đời cho tới khi xuống mộ nữ giới luôn
cố gắng làm cho nam giới thỏa mãn lòng tự ái của họ,
và những người đàn ông được thỏa mãn đó có bổn
phận đền đáp bằng cách ngưỡng mộ đàn bà nhiều
hơn.
Thật vậy, đàn ông sẵn sàng trao cho đàn bà tất
cả, ngoại trừ óc thông minh. Scarlett đã học tập cách
làm ra duyên dáng cũng như Melanie, nhưng thiếu chăm chú và
thiếu hoàn bị hơn.
Cái khác biệt giữa Melanie và
Scarlett nằm trong sự kiện Melanie nói năng hòa nhã, và
tâng bốc mọi người để làm họ hài lòng, dầu trong
chốc lát, còn Scarlett thì chẳng bao giờ như vậy được
trừ phi đã có sẵn ý định chiếm đoạt mục đích
riêng.
Từ hai con người mà Charles yêu
mến nhứt đời đó, anh chẳng đã nhận được một ảnh
hưởng quả cảm nào, không học hỏi được gì về sự
tàn nhẫn hay thực tế của đời, và ngôi nhà mà anh đã
sống cho tới tuổi trưởng thành thật quá êm đềm như
một tổ chim.
Nó hoàn toàn yên tĩnh, cũ kỹ và êm dịu
quá so với Tara. Đối với Scarlett ngôi nhà nầy hãy còn
thiếu mùi rượu mạnh ở đàn ông, mùi thuốc lá và mùi
dầu Macassar; thiếu những giọng ồ ề, những tiếng chửi
rủa; thiếu những cây súng, những bộ râu, yên cương
ngựa và lũ chó săn lẩn quẩn bên chân.
Nàng thấy nhớ
những tiếng cãi lẫy, gây gổ nhau khi bà Ellen vừa quay lưng
đi: Mammy gây với Pork, Rosa cãi với Teena, những cuộc đấu
khẩu gay gắt giữa nàng và Suellen, những lời nạt nộ
của ông Gerald.
Charles có cái vỏ ẻo lả như con gái cũng
chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì đã lớn lên trong một
ngôi nhà như vậy . Ở đây không hề có một dấu hiệu
sôi động nào, không một tiếng nói to, ai cũng muốn làm
theo ý kiến của kẻ khác và rốt cuộc một người da
đen độc đoán ở trong nhà bếp đã nắm giữ hết quyền
hành .
Scarlett tưởng rằng đã thoát được sự kềm chế
của Mammy, bây giờ lại khổ sở hơn vì những tiêu chuẩn
của bác Peter về lối sống của các bà quí phái, đặc
biệt là "quả phụ Charles" còn nghiêm nhặt hơn
cả Mammy.
Sống giữa những con người đó,
Scarlett trở lại với con người thật của nàng, và gần
như trước khi ý thức được điều đó, tâm hồn nàng
đã trở lại bình thản .
Nàng chỉ mới 17 tuổi, dồi
dào sinh lực và ý chí, đã vậy, người nhà của Charles
còn cố gắng làm cho nàng được sung sướng . Nếu họ
chỉ đạt được một phần nhỏ thì đó không phải là
lỗi của họ, bởi không ai có thể xoa dịu được cơn
đau nhói ở tim nàng khi nghe nhắc đến tên Ashley, mà
Melanie lại thường hay đề cập đến cái tên ấy!
Nhưng
Melanie và cô Pitty dường như không thối chí trong mục
tiêu làm nguôi sự phiền muộn mà họ ngỡ là nàng đang
gánh chịu .
Họ đặt chuyện buồn phiền của họ một
bên để làm nàng khuây khỏa . Họ lo lắng đến chuyện
ăn uống, giấc ngủ trưa và giờ đi dạo bằng xe của
nàng . Không những họ ngưỡng mộ nàng thái quá về tánh
tình linh hoạt, về thân hình đều đặn, về chân tay
xinh xắn và làn da trắng nõn của nàng, họ lại thường
nâng niu, ôm ấp và hôn hít nàng để nhấn mạnh thêm
những lời thương yêu của họ .
Scarlett không quan tâm đến những
sự mơn trớn, nhưng nàng cũng thấy thích thú với những
lời ca tụng . Không một ai ở Tara nói những lời khoan
khoái như thế cả .
Thật thế, Mammy chỉ dùng thì giờ
của bà để ngăn trở quan điểm sống của nàng .
Thằng
bé Wade từ lâu không còn quấy rầy nàng nữa, vì cả gia
đình, từ da trắng lẫn da đen cho đến láng giềng đều
ưa thích và không ngớt tranh nhau bồng ẵm nó .
Nhứt là
Melanie lại quá nuông chiều nó . Ngay cả những lúc nó la
hét chói tai, Melanie cũng cho rằng nó dễ thương và còn
nói thêm:
− Cục cưng vàng ngọc của cô,
ước gì cưng là của cô.
Đôi khi, Scarlett thấy khó mà
giấu được cảm nghĩ của mình, vì nàng vẫn cứ coi cô
Pitty như là một bà già đần độn, và tánh ngớ ngẩn
cùng những chuyện tầm phào của cô cứ làm cho nàng bực
dọc .
Với Melanie, lòng ghen ghét của nàng càng gia tăng .
Nhiều lúc nàng đột ngột ra khỏi phòng trong khi Melanie
mắt sáng ngời vì hãnh diện nói về Ashley hay đọc to
những lá thơ của chàng .
Nhưng dầu sao, đời sống cũng
đã trở nên thoải mái phần nào . Atlanta thú vị hơn
Savannah hay Charleston, hoặc Tara. Nó đem tới cho nàng nhiều
bận rộn kỳ lạ trong tình trạng chiến tranh đến nỗi
nàng ít có thì giờ để nghĩ ngợi hoặc buồn phiền .
Tuy nhiên lắm lúc sau khi đã tắt đèn cầy và vùi đầu
trong gối, nàng thường thở dài và nghĩ vẩn vơ:
"Phải chi Ashley chưa cưới
vợ! Phải chi mình không làm nữ điều dưỡng trong cái
nhà thương ôn dịch đó!
Ồ, phải chi mình có được vài
người theo tán tỉnh!"
Nàng ghê tởm nhiệm vụ nữ điều
dưỡng ngay từ đầu, nhưng không thể nào tránh thoát bởi
vì nàng có chân ở cả hai ủy hội của bà Meade và
Merriwether.
Điều nầy có nghĩa là bốn ngày mỗi tuần,
nàng phải làm việc trong nhà thương nóng bức và hôi
hám, với mái tóc quấn cao gọn trong khăn và một chiếc
yếm che từ cổ xuống chân.
Những người có chồng dù
trẻ hay già, đều phải làm nữ điều dưỡng . Họ làm
phận sự với tất cả hăng say đến nỗi Scarlett cho đó
là lòng cuồng tín .
Họ cho rằng nàng cũng thâm nhiễm
được lòng ái quốc nhiệt thành của họ, và họ sẽ
kinh hoàng biết bao nếu biết được rằng Scarlett chẳng
quan tâm mấy tới chiến tranh. Ngoại trừ sự đau đớn
âm thầm vì việc Ashley có thể tử thương, nàng chẳng
chú ý gì tới chiến tranh và phải làm nữ điều dưỡng
chỉ vì nàng không biết làm sao từ chối được .
Việc săn sóc thương binh nhứt
định là chẳng có gì thơ mộng cả . Với nàng, đó là
những tiếng rên la, mê sảng, cái chết và mùi hôi tanh.
Bịnh viện tràn ngập những người dơ bẩn, râu ria xồm
xoàm, đầy chí rận hôi hám kinh khủng, mình đầy những
vết thương ghê tởm đủ làm nôn mửa một tín đồ
Thiên Chúa giáo .
Các nhà thương đều dậy mùi hôi thối
của chứng hoại thư, nó xông thẳng vào mũi nàng thật
lâu trước khi nàng đi tới các cửa phòng, nó bám vào
tay, vào tóc và ám ảnh nàng cả trong giấc mộng .
Ruồi,
nhặng và muỗi bay đua nhau vo ve quanh phòng bịnh tấn công
tới tấp các bịnh nhân khiến họ chửi rủa ầm lên
hoặc khóc thầm đau đớn .
Scarlett vừa gãi những vết
muỗi, vừa vung quạt lá đuổi ruồi cho đến lúc hai vai
đau nhức . Và nàng rủa thầm sao họ không chết hết cả
đi.
Melanie hình như không ngửi thấy
mùi hôi tanh, không để ý đến những vết thương lở
loét hay sự trần truồng của những thương binh.
Scarlett
thấy làm lạ tự hỏi, một người quá nhát nhúa và nết
na như thế sao lại có thể như vậy được .
Đôi lúc
bưng bồn nước hoặc dụng cụ y khoa cho bác sĩ Meade cắt
những lõm thịt thúi, mặt Melanie trắng bệch .
Một lần,
sau cuộc giải phẫu, Scarlett tìm thấy Melanie trong phòng
chứa quần áo, nôn mửa lặng lẽ vào khăn. Nhưng lúc nào
ở bên cạnh thương binh, Melanie vẫn khả ái, thật tế
nhị và thường hay vỗ về họ .
Tất cả thương binh đều
gọi nàng là bà tiên nhân từ .
Scarlett cũng thích tước
hiệu đó, nhưng muốn vậy là phải nhúng tay vào những
người lúc nhúc chí rận, phải sờ mó cổ họng những
người đang mê thiếp để coi họ có nghẹt thở vì nuốt
phải một mẩu thuốc lá hay không, băng bó những đoạn
chân tay bị cưa hay bắt giòi trong những chỗ thịt lở
loét .
Không, nàng không thích làm nữ điều dưỡng chút
nào . Nàng có thể cảm thấy dễ chịu hơn nếu được
phép sử dụng vẻ duyên dáng của mình với những người
vừa hồi phục, vì phần đông họ đều dễ nhìn và là
con nhà danh giá, nhưng nàng lại không được cho làm ở
đó vì tình trạng góa bụa .
Các thiếu nữ quí phái
trong thành phố không được làm nữ điều dưỡng vì
người ta sợ họ chứng kiến những cảnh không xứng
đáng với đôi mắt nguyên trinh của họ .
Vì vậy họ
được phó thác việc coi sóc những người vừa mới hồi
phục sức khỏe . Không chồng mà cũng không phải góa
bụa, họ hoàn toàn tự do, mặc sức chọc phá những
người nầy . Ngay cả những cô kém duyên dáng nhứt,
Scarlett buồn bã nhận thấy, cũng dễ dàng tìm được một
anh chàng nào đó để đính hôn.
Ngoài sự hiện diện của những
kẻ thiếu hy vọng cứu chữa hoặc bị thương nặng,
Scarlett chỉ hoàn toàn sống trong thế giới đàn bà, càng
làm cho nàng bực bội hơn bởi vì chẳng những không tin
tưởng vào nữ phái, nàng lại luôn luôn khó chịu khi
phải chung đụng với người cùng phái .
Nhưng cứ ba
chiều một tuần, nàng phải tới hội may vá và cuộn
băng do thân hữu của Melanie tổ chức .
Các cô gái hầu
hết đều biết Charles, nên rất ân cần và niềm nở với
nàng, đặc biệt là Fanny Elsing và Maybelle Merriwether, ái
nữ của hai quả phụ quí tộc trong thành phố .
Nhưng
được họ kính mến nhiều nàng có cảm tưởng bị loại
vào hạng già nua sắp bị phế thải . Họ không ngớt bàn
về những buổi khiêu vũ, về những kẻ si mê họ khiến
nàng vừa ghen tức hạnh phúc của họ vừa phẫn uất
tình trạng góa bụa của mình đã không cho nàng được
làm gì nữa cả .
Ồ! Mình đẹp gấp ba lần Fanny và
Maybelle!
Ồ, tại sao cuộc đời cứ bất công!
Tại sao
mọi người đều cứ nghĩ rằng trái tim của mình đã
được vùi xuống mồ trong khi sự thật nó đang ở
Virginia với Ashley!
Nhưng mặc dầu có phải phiền
muộn như vậy, nàng vẫn hài lòng về Atlanta. Và chuyến
viếng thăm của nàng kéo dài từ tuần nầy sang tuần
khác .
(Đón đọc chương 9)