Friday, May 23, 2014

Chiếc hòm gỗ bí mật (Kỳ 3)

 

Chuyện Cấm Cười sưu tầm

Tiếp theo (kỳ 2)

Một điều lạ lùng khác là lần nào cũng vậy, chỉ một lát sau, tôi cũng nghe thấy tiếng thì thào nói nhỏ của hoạ sĩ C ở trong đó. Tôi thường dỏng tai nghe thật chăm chú những tiếng động tiếp theo để phỏng đoán những gì đã xảy ra tiếp ở phía sau chiếc hòm lớn. Có tiếng dùi đục nện xuống chuôi một cái đục, đã được đệm bởi nhiều lớp vải, phát ra những tiếng gõ đã giảm thanh, giúp tôi nhận ra là họ đang đậy nắp hòm.

Một lát sau, tiếng gõ bặt đi, và tôi phỏng đoán là họ đã mở được nắp hòm, sau đó đặt xuống cái giường thấp kê bên cạnh. Điều này tôi đoán ra là vì tai tôi nghe thấy tiếng ván gỗ va chạm nhẹ vào thành giường. Sau đó là sự tĩnh lặng kéo dài trong đêm, tôi chẳng nghe thêm được tiếng động gì khác, ngoại trừ đôi lúc dường như có tiếng động gì đó vừa giống như tiếng người thổn thức, vừa như tiếng thở dài vẳng lại, có điều là những tiếng động đó không kéo dài. Những âm thanh do chính tai tôi nghe thấy trong lúc tỉnh ngủ chứ chẳng phải là điều tưởng tượng trong mộng ảo.

Nhưng họa sĩ C đã mở chiếc hòm ra để làm gì nhỉ? Chắc chắn chẳng phải để thỏa mãn cặp mắt nghệ thuật của mình trước cái kho tàng hội họa vô giá ấy. Nhưng sao lại có tiếng thổn thức? Tôi nhắc lại điều này để tự hỏi xem có phải là một hiện tượng kỳ dị tạo nên do ảnh hưởng của thứ trà đặc mà thuyền trưởng mời tôi uống? Tôi muốn kể thêm rằng, trước lúc rạng đông, tôi còn nghe thấy tiếng họa sĩ C đóng lại nắp hòm và gõ lại cái nắp bằng dùi đục, mà đục có giảm thanh như tôi đã mô tả.

Sau những hành động kỳ dị thực hiện trong đêm, sáng dậy, tôi lại thấy họa sĩ C ăn mặc chỉnh tề đi từ phòng riêng của mình sang phòng bên với vợ.

Chúng tôi đã qua 7 ngày vượt biển, thì có gió Tây Nam cực mạnh thổi tới. Biển động mạnh, và trước nguy cơ có bão lớn ập tới, chúng tôi chuẩn bị các biện pháp đề phòng, nhưng sự đe dọa của bão tố đã chẳng giảm bớt chút nào. Mọi thứ trên tầu đều được chằng buộc chặt chẽ, dưới thấp trên cao và tới lúc chẳng còn đương đầu nổi với gió mạnh, chúng tôi thả neo, cuộn bớt bườm, rồi rút xuống dưới khoang. Với biện pháp chống bão tích cực như vậy, chúng tôi đứng vững được 48 giờ. Thử thách thách qua sóng to gió lớn, con tàu tỏ ra xứng đáng là một tàu biển đóng đúng qui cách và có độ chắc bền cao. Bị xô đẩy vật vờ nổi lên chìm xuống qua nhiều tình huống hết sức hiểm nghèo, nhưng con tàu không bị chìm, và sóng biển đã chẳng tràn qua được thành tầu.

Gió giật mỗi lúc một lớn, một cơn lốc cực mạnh xé rách tả tơi những cánh bườm phía sau tầu. Sóng lớn đẩy tàu trôi dạt vào vùng áp suất thấp, nơi mà bão ở cấp gió mạnh nhất đang gây tai họa. Ba người bị gió thổi bay từ mạn tầu xuống biển, và hầu như toàn bộ hành khách ở mạn trái con tầu cũng cùng chung số phận. Khi những cánh bườm bị bão xé rách tả tơi, chúng tôi tháo bỏ những cánh bườm phía mạn tầu đối xứng để con tầu thoát khỏi nguy cơ bị lật chìm vì độ nghiêng lệch. Gió vẫn giật ở cấp độ cao, chưa thấy dấu hiệu dịu đi. Các trang thiết bị của con tàu hầu hết bị lỏng lẻo, xộc xệch khó mà đương đầu nổi với tình huống nguy khốn đến tuyệt vọng.

Vào ngày thứ ba trong cơn bão, khoảng 5 giờ chiều, cột buồm phía buồng lái bị gió quật gẫy, và con tàu bị tròng trành mạnh. Người thợ mộc đang sửa chữa mé đuôi tầu báo cho biết là nước đã ngập trong khoang tới 4m20. Đang lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, thì lại có tin là chiếc máy bơm tắc nghẽn, không dùng được nữa.

Tất cả chúng tôi đều bối rối và tuyệt vọng, nhưng còn nước còn tát, trước mắt phải vừa dùng tay tát nước ra khỏi khoang, vừa ném bớt hàng hóa xuống biển cho con tàu nhẹ bớt, đồng thời cũng lập tức phải cắt ngay hai chiếc cột buồm còn lại. Chúng tôi đã làm xong những công việc trên mau chóng, nhưng lại không sửa chữa được chiếc máy bơm nước, nên chỉ một lúc sau nước đã qua lỗ thủng ngập đầy khoang.

Đến chiều tối, gió bão đã giảm mức độ cuồng nộ, biển phẳng lặng dần, chúng tôi bớt lo sợ, trong ý nghĩ mọi người bừng lên tia hy vọng sống sót. Vào lúc 8 giờ tối trời quang mây, ngẫng nhìn lên, chúng tôi thấy ló ra vầng trăng tròn vành vạnh. Chúng tôi coi vầng trăng vừa ló dạng là biểu tượng của phúc lành, và điều ấy giúp cho chúng tôi lấy lại được tinh thần.

Sau những nổ lực khó có thể mô tả nổi trong việc giữ cho con tàu khỏi chìm trong bão táp. Các thủy thủ được hành khách giúp đỡ, đã thành công trong công việc làm cho con tàu tiếp tục đi thêm được một lộ trình nữa, khi mà sóng gió đã dịu bớt. Và trong niềm phấn khởi chắc chắn được sống sót, họ mở một tiệc mừng trước khi cắt chiếc xuồng, rời bỏ con tàu sắp chìm. Chiếc xuồng nhỏ chở 14 người hành khách cùng với thuyền trưởng. Tất cả đã để lại mọi tài sản của mình trên tầu. Trong chiếc xuồng nổi lênh đênh, có vợ thuyền trưởng, họa sĩ C, và gia đình vợ chồng một sĩ quan người Mexico cùng 4 con nhỏ, tôi và người hầu da đen của tôi. Tất nhiên xuồng chúng tôi không có mái che, không có hành lý đem theo, ngoại trừ một số dụng cụ cần thiết, thực phẩm và quần áo mặc trên người. Không ai dám nghĩ đến chuyện giữ thêm bất kỳ thứ gì khác, mà tất cả thực hiện đúng như lệnh của thuyền trưởng.
Chiếc hòm gỗ bí mật (kỳ cuối)


Thursday, May 15, 2014

Chuyện kinh dị: Chiếc hòm gỗ bí mật (Kỳ 2)

 


Chuyện Cấm Cười sưu tầm

Tiếp theo (kỳ 1)

Từ sau lần chào hỏi xã giao ấy, tôi thầm nghĩ: một cô gái dung nhan tầm thường như vậy thật không xứng với bạn tôi.Tuy nhiên, nếu khẳng định cô ta là một phụ nữ xấu thì cũng không hẵn là như thế. Về cách phục sức của cô thì quả là đúng mốt thời đại.

Cuối cùng, tôi tự giải đáp là có lẽ cô ta đã chinh phục trái tim bạn tôi bằng những lời ăn tiếng nói có duyên, hoặc giả bằng một tâm hồn đầy sức truyền cảm. Tôi chưa biết được nhiều về cô, vì gặp tôi, cô chỉ nói vài lời rồi theo chồng vào trong phòng ngay sau đó.

Thế là cái tính hiếu kỳ cố hữu của tôi lại trở lại. Điểm thắc mắc chính của tôi vẫn là không có người hầu đi theo. Tôi vẫn còn nhớ hôm ấy gia đình C đến trước, xe chở hành lý đến sau, bốc xuống một cái hòm bằng gỗ thông. Và dường như mọi thành viên trong gia đình đều ngóng đợi hòm hành lý ấy. Tầu nhổ neo ngay sau khi cái hòm đặc biệt ấy được chuyển xuống. Con tầu đã mau chóng vượt qua các sĩ quan hải quan kiểm soát của cảng và thẳng tiến ra khơi.

Cái hòm bí ẩn mà tôi tò mò chú ý đến có hình khối chữ nhật, chiều dài khoảng 1m85, chiều rộng khoảng 0,75m. Tôi quan sát khá kỹ và chính xác. Hình dáng cái hòm thật đặc biệt, tôi chưa từng trông thấy bao giờ.

Tôi ước tính kích thước quá khổ của nó để kết luận là bên trong chỉ có thể đựng những bức tranh lớn cuộn lại, và tôi phỏng đoán là những bản sao từ các kiệt tác hội họa. Có thể là họa sĩ C đã vẽ lại bức tranh được nhiều người hâm mộ có tên là " Bữa ăn nhẹ buổi tối". Tôi được biết là có hai bản sao, một của họa sĩ trẻ tuổi Rubini ở Pháp và một của họa sĩ C. Hai bức tranh này đã từng được bảo quản tại phòng tranh thuộc quyền sở hữu từ Nick sang C.

Tôi lấy làm thích thú về sự phỏng đoán này, và cười thầm về chuyện C đã cố tình giấu giếm không cho tôi biết chuyện làm ăn của anh ta, một điều mà trước đây C không cư xử với tôi như thế bao giờ. Tuy nhiên, tôi quyết định lờ đi, coi như không biết đến chuyện này.

Còn một điều khác nữa làm tăng thêm sự hiếu kỳ của tôi. Cái hòm không được xếp ở phòng lớn mà lại được chuyển vào phòng riêng của C, kê sát vào giường ngủ của anh. Điều này tôi cho là không bình thường chút nào, vì hắc ín quyét bên ngoài cái hòm bốc lên mùi rất khó chịu, song chẳng những họ chịu đựng được, mà còn tỏ ra chú trọng quan tâm đặc biệt đến cái hòm bí ẩn đó, làm như bên trong có chứa đầy châu ngọc không bằng.

Trên nắp hòm có ghi tên người nhận: Phu nhân Adelaide Curtis. Người gửi: Comelius Wyatt, và còn ghi rõ: mặt trên. Xin chuyển nhẹ nhàng.

Phu nhân Adelaide Curtis là mẹ vợ của họa sĩ C. Tôi đọc dòng chữ ghi địa chỉ với lòng ngưỡng mộ và tôn kính nhưng khó hiểu là tất nhiên, vì cái hòm gỗ bí ẩn đó, nếu bên trong chỉ là những bức tranh như tôi đã phỏng đoán, thì tại sao lại gửi tới cho người thân ở tận Albany xa xôi?

Ba ngày đầu, thời tiết trên biển khá đẹp, cho dù chiều gió thổi thường thay đổi luôn. Sang ngày thứ tư, tầm nhìn phía trước bỗng nhiên trở nên mù mịt u ám, chẳng còn nhìn thấy đất liền.

Hành khách trong chuyến đi này phần lớn là những nhà khá giả, tinh thần phấn chấn, có trình độ giao tiếp lịch sự và chan hòa, nhưng C và hai cô em gái thì lại luôn tỏ một thái độ miễn cưỡng khi tiếp xúc với mọi người.

Tôi buộc phải nói sự thật là họ đã chẳng có nỗi lấy một thái độ giao tiếp lịch sự tối thiểu, mặc dù trong thâm tâm, tôi chẳng muốn để mắt xoi mói nhiều đến họ làm gì. Như tôi đã từng nói với độc giả, tính khí của C vốn lạnh nhạt với mọi người, ít nói lầm lì, trên con tầu này, anh còn tỏ ra rất rầu rĩ, và về điểm này, tôi không giải thích nổi thái độ kỳ cục của anh ta.

Với hai cô em gái của anh, dường như lúc nào cũng muốn lần tránh trong phòng riêng, và thái độ lạ lùng đó gần như kéo dài gần suốt cuộc hành trình, cho dù mỗi lần gặp mặt, tôi đều động viên hai cô nên có giao tiếp với những người cùng chuyến đi.

Phu nhân C thì tính khí cởi mở hơn, có vẻ như thích chuyện phiếm với mọi người. Nhưng chuyện phiếm thì hợp với đâu đó, chứ không hợp với một chuyến vượt biển như thế này. Cô mau chóng trở thành thân thiết với hầu hết các phu nhân khác trên tầu, nhưng điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất là một vài lần cô ta tham gia cả vào những chuyện cợt nhã với đàn ông.

Những người thuộc giới thượng lưu không nói gì nhiều về cô, nhưng các quý bà thì chỉ sau một lúc tiếp xúc, chuyện trò với cô đã nhận xét ngay là: "Cô gái này bộc tuệch vô duyên và ít học". Điều ngạc nhiên của mọi người là không hiểu C đã ăn phải bùa mê, thuốc lú gì? mà lại lầm lẫn lấy cô ta về làm vợ.

Xưa nay giàu sang cũng là một nguyên do dẫn tới hôn nhân, nhưng trường hợp của C thì lại hoàn toàn chẳng phải như vậy. C đã từng tâm sự với tôi là đã không hề nhận tiền bạc hoặc bất kỳ của cải từ cô gái ấy. Anh  nói, đã kết hôn với cô ta vì tình yêu và hoàn toàn chỉ vì yêu cô ta mà thôi. Buồn thay, cô gái tầm thường đó đã không xứng đáng với tình yêu của C.

Quả thực là tôi rất bối rối khi nói lên những ý nghĩ của mình về cuộc hôn nhân của C. Liệu còn vấn đề gì khác nữa mà tôi chưa nghĩ đến, đã làm cho bạn tôi lầm lẫn trong việc kén chọn người bạn trăm năm của mình? Bạn tôi là một người lịch sự như thế, có học thức như thế, xưa nay vốn khó tính, rất nhạy cảm trong việc phân biệt thật giả: năng khiếu thẩm mỹ có thừa, vậy lầm lẫn trong hôn nhân là do đâu? Về phần cô gái thì chắc chắn cô ta kính trọng người chồng của mình lắm.

Tôi chỉ căn cứ vào những lời cô ấy nói về chồng mình một cách lễ phép, khi chồng không đứng bên cạnh là đủ rõ. Trong cách xưng hô, chỉ có một lần tôi nghe thấy cô ấy gọi C là "chồng tôi" còn hầu như gọi là "ngài C". Còn đối với họa sĩ C, trong quan hệ với vợ mình, mọi người trên đều nhận xét là chính anh ta cũng dường như tránh không muốn gặp vợ trong sinh hoặt hằng ngày.

Anh thường đóng chặt cửa phòng riêng và ở trong đó một mình. Hiện tượng đó không bình thường chút nào, vì vợ chồng mới cưới thường gần gũi, chăm sóc cho nhau, người vợ mới chẳng thể có nhiều thời gian rảnh rỗi ngồi chuyện phiếm với các thủy thủ ở cabin.

Những điều tôi nhìn và nghe thấy đã giúp cho tôi rút ra một nhận định: do say mê bồng bột nhất thời, lấy nhầm phải người vợ chẳng ra gì, anh đã phải chịu đựng hậu quả chán chường. Tôi thấy thương hại anh từ đáy lòng, mặc dù cho tôi lúc này, tôi vẫn còn chưa nguôi giận về chuyện anh cố tình giấu diếm tôi về những bức họa đóng trong hòm gỗ.

Một hôm, anh rời phòng riêng lên boong tàu cùng với tôi. Chúng tôi khoác tay nhau thân mật như mọi lần trước đây. Anh thơ thẩn đi tới đi lui bên cạnh tôi, rầu rĩ, tôi cho rằng cảnh ngộ éo le đã khiến anh khổ sở và điều đó là chuyện thường tình. Anh rất ít lời, tính khí thất thường, bất đắc dĩ mới nói vài lời. Khi tôi buông mấy câu bông đùa để phá tan cái không khí lặng lẽ, thì anh đáp lại bằng nụ cười gượng gạo.

Ôi người bạn đáng thương của tôi! Chính vì ái ngại cho cảnh ngộ của anh, mà tôi tránh không trách móc thẳng vào thái độ cư xử thiếu thành thật của anh đối với tôi. Tuy nhiên, tôi thầm nghĩ: chẳng thể bỏ qua, mà phải tìm cách nói bóng gió để anh ta hiểu được là những việc giấu diếm của anh ta đã chẳng thể qua nổi mắt tôi. Tôi đưa ra những lời nhận xét về hình dáng và kích cỡ không bình thường của cái hòm gỗ kỳ dị, để qua đó ám chỉ đến hành động che giấu vụng về mà tôi thừa biết: Tôi vừa nói vừa nháy mắt, và còn dùng ngón tay trỏ chọc vào mạng sườn bạn tôi nữa.

Tôi thật không ngờ cách nói ẩn dụ và lối khôi hài, mà tôi cho là vô hại ấy, đã làm cho bạn tôi phát điên lên. Trước hết, anh giương mắt trừng trừng nhìn tôi, cứ như là đã không hiểu nổi những lời nhận xét dí dỏm tôi vừa nói. Sau đó, chẳng rõ trong óc anh đã suy luận và nhận thức ra điều gì khác, mà mắt anh trông cứ như lồi ra khỏi hốc mắt.

Sắc mặt anh đỏ bừng bừng, rồi từ màu đỏ lại chuyển sang màu xanh xám một cách gớm ghiếc, và sau đó, dường như lấy làm thích thú với những lời nói xa xôi bóng gió của tôi, anh phá lên cười giòn giã, và càng cười to như người điên khi thấy tôi biểu lộ vẻ ngạc nhiên, rồi khoảng mười phút sau anh ngã vật xuống sàn tàu. Khi chạy lại đỡ anh dậy, tôi thấy anh mê man bất tỉnh, nhìn vẻ ngoài như người đã chết rồi.

Tôi gọi thầy thuốc đến cấp cứu và gặp rất nhiều khó khăn mới làm cho anh ta hồi tỉnh lại được. Nằm trên giường hồi sức, anh ú ớ, chẳng ai hiểu là anh nói gì.

Tới sáng hôm sau, anh hoàn toàn bình thường, đến mức không còn điều gì phải chữa trị cho cơ thể nữa. Về sự suy sụp tinh thần của anh ta, tôi là người hiểu hơn ai hết, nhưng tôi im lặng không hé răng nói điều gì. Những ngày còn lại trong chuyến vượt biển, tôi tránh không gặp lại anh ta nữa.

Ngài thuyền trưởng dường như hiểu tường tận nguyên nhân gây nên nỗi điên khùng của C nên ông khuyên tôi giữ kín chuyện này, chớ để bất kỳ ai trên tàu biết chuyện.

Tiếp theo việc họa sĩ C ngã bất tỉnh, nhiều sự việc khác lại tiếp tục diễn ra với gia đình người họa sĩ quý tộc đã kích thích tính hiếu kỳ ngoan cố của tôi. Một hiện tượng kỳ dị cuốn hút sự chú ý của tôi đã xảy ra vào mấy hôm tôi thao thức do uống quá nhiều nước trà đặc. Có hai đêm gần như tôi đã thức trắng.

Phòng riêng của tôi mở thông sang buồng lái và phòng ăn, cho nên hành khách trên tầu thường qua lại luôn. Ba căn phòng thuộc gia đình họa sĩ C thì ở khất phía bên kia, lối đi nhỏ sau buồng lái có một cái cửa lùa thường bỏ ngỏ không khóa bao giờ.

Để có thể thông gió cho tất cả các phòng, và để hành khách luôn cảm thấy dễ chịu khi tầu lướt trên biển, nhất là khi tầu chuyển theo hướng chệch với hướng gió thổi tới, cửa lùa được mở thường xuyên ban đêm khi ngủ, và ban ngày, khi mọi người đều thức thì cũng chẳng ai đóng cửa lại.

Vị trí phòng riêng của tôi có cửa phòng nhìn ra lối đi chung, và khi mở có thể nhìn xuyên suốt sang buồng lái và ba căn phòng của gia đình họa sĩ. Cửa phòng riêng của tôi cũng thường xuyên để ngỏ vì trời nóng bức.

Trong hai đêm mất ngủ, tôi tình cờ chứng kiến một số hoặt động của gia đình C. Cứ khoảng mười một giờ mỗi đêm, tôi đều thấy phu nhân C đi từ phòng chồng sang phòng ngoài, nơi đặt chiếc hòm gỗ bí ẩn, rồi ở lại tại đấy cho tới rạng sáng hôm sau, cô ta đã rời khỏi phòng của chồng vào ban đêm ly thân hay điều bí ẩn gì khác của hòm để hành lý?
Xem tiếp (Kỳ 3) tại đây

Chiếc hòm gỗ bí mât


 


Chuyện Cấm Cười sưu tầm

Mấy năm trước, tôi đi tàu biển trong chuyến hành trình từ S.C. đến thành phố Nữu Ước. Con tàu chở thư đó có tên "Độc Lập", do ông Henry làm thuyền trưởng. Trong điều kiện thời tiết thuận lợi, tầu dự định nhổ neo vào ngày mười lăm tháng sáu. Tôi xuống tầu vào ngày 14, trước một ngày, để có thời gian sắp xếp phòng riêng đã mua vé.

Nhìn qua danh sách hành khách, tôi được biết tầu đã kín chỗ và có nhiều phụ nữ, trong đó có một số phu nhân gia đình quyền quý. Tôi nhận ra tên một số người quen biết và lấy làm vui khi thấy có tên vợ và người nhà của C. một họa sĩ trẻ, vốn là người bạn cũ khá thân thời sinh viên của tôi. 

Thời ấy, chúng tôi cùng học với nhau ở Trường đại học A. Anh là một sinh viên có tài năng, đa sầu, đa cảm, tuy nhiên tính khí  đồng bóng, có lúc như người yếm thế, muốn xa lánh mọi người, nhưng có lúc lại tỏ ra rất nhiệt tình với bất kỳ ai mà anh tiếp xúc. Với những tính cách đó, anh là một người có trái tim nồng hậu và chân thật hiếm có ở trên đời.

Anh đăng ký ghi tên bốn người trong gia đình anh, vợ anh, một người em gái và một đầy tớ gái. Các ngăn riêng trên tầu khá rộng rãi, mỗi ngăng có hai giường, giường dưới, giường trên. Các giường trong ngăn không được rộng rãi, mỗi giường chỉ đủ cho một người nằm chẳng thể chung đôi. Chính vì vậy mà khi thấy gia đình anh chỉ nhận có ba giường làm tôi cứ thắc mắc mãi.

Thú thật, tôi cũng đã sớm nhận ra sự thắc mắc của tôi là vô lý, thậm chí còn là điều đáng xấu hổ nữa là đằng khác, vì chẳng phải là chuyện của mình mà tự nhiên lại rỗi hơi dí mũi vào. Nhưng khổ nỗi là tôi đã chẳng làm sao mà bỏ qua nổi cái tính tò mò đáng ghét đó.

Ba cái giường chật hẹp cho 4 người? Và thế là tôi cứ ương ngạnh lẳng lặng tìm lời giải đáp cho cái câu đố khó giải đó. Cuối cùng tôi đi tới một kết luận, mà tôi cho là xác đáng, đồng thời tự trách mình là ngốc nghếch, đáng lẽ phải tìm ra ngay lời giải đó sớm hơn mới phải. Câu giải tôi tìm ra là bà chủ có đầy tớ gái đi kèm, nên cô đầy tớ gái có thể ngủ dưới sàn tàu sát cạnh giường phu nhân. 

Đáp án tìm ra chưa thỏa mãn được tính hiếu kỳ của tôi bao lâu, thì chợt lại tan biến vì chỉ vài hôm sau tôi phát hiện ra rằng, hai cô tiểu thư đi cùng đều là hai người em gái anh ta chứ không có đầy tớ gái nào cả. Tiếp theo, tôi lại tìm ra lời giải đáp khác có thể do cái hòm hành lý to khổ kia - cái hòm đóng bằng gỗ thông hình chữ nhật đầy bí ẩn đó, đựng gì bên trong thì tôi không rõ, nhưng chắc là đựng đồ quí giá - cần phải có chủ nhân nó đich thân nằm sát ngay bên cạnh để bảo quãn.

Tôi đoán rằng có thể là một bức tranh lớn do họa sĩ vẽ được tháo rời, cuộn lại rồi xếp ở bên trong. Và tất nhiên bức tranh có thể bán được với giá cao cho một lái buôn tầm cỡ như Tom Mineman, một con buôn sành sỏi người Do Thái định cư ở Itali chẳng hạn? Sự phỏng đoán này lại một lần nữa làm tắt đi cái tính tò mò, hiếu kỳ chẳng sao sửa chữa nổi của tôi.

C có hai người em gái rất đáng yêu và thông minh, tôi đã quen biết họ từ trước, nhưng còn người vợ mới cưới của anh thì tôi chưa từng gặp bao giờ. Đã vài lần anh kể với tôi về người vợ trăm năm của anh với một tình cảm tha thiết và sâu đậm. Anh ta thường khen cô ta xinh đẹp, giỏi giang, thành đạt trong học tập, làm cho tôi cảm thấy hồi hộp và lo lắng chờ dịp được làm quen với cô ta.

Vào ngày 14 - như tôi đã kể lúc đầu, tôi lên tàu thì cũng là ngày C và những ngưòi cùng đi đến thăm tầu - điều này thuyền trưởng nói cho tôi biết - và do đó tôi đợi thêm một tiếng nữa so với dự định, với hy vọng là sẽ được gặp vợ người bạn. Nhưng đáng tiếc là sau đó thuyền trưởng đưa cho tôi xem mảnh giấy với những lời tạ lỗi của hoạ sĩ gửi tới: "Phu nhân C không được khỏe nên có lời tạ lỗi và sẽ lên tầu trước giờ nhổ neo ngày mai".

Hôm sau, tôi rời khách sạn đến bến cảng và gặp thuyền trưởng Henry. Ông nói với tôi là ngày nhổ neo còn phải "tùy thuộc thời tiết". (tôi có cảm giác là câu nói của thuyền trưởng chỉ là đưa ra một cái cớ giả tạo để trì hoãn ngày nhổ neo).

Tôi nghĩ: "Thà ông cứ nói thẳng là còn kẹt điều gì đó chưa chuẩn bị xong nên hoãn ngày khởi hành lại một hoặc hai ngày nữa khi nào sẵn sàng sẽ báo cho biết", thì tôi còn thấy dễ chịu hơn là nghe ông nói đến "thời tiết xấu", trong khi mà gió Nam vẫn đang thổi nhẹ nhàng và không có dấu hiệu gì là biển động cả. Tôi chưng hửng trước tin này và cảm thấy xót ruột, nhưng chẳng thể làm gì khác là quay lại khách sạn và chờ đợi.

Gần hết một tuần lễ nữa qua đi, tôi vẫn chẳng nhận được tin báo của thuyền trưởng. Nhưng rồi sau đó tin báo về ngày nhổ neo cũng tới. Tôi lập tức đến ngay bến cảng.

Hành khách chen chúc lên tầu và dường như mọi người, mọi việc lúc này đều tập trung vội vã cho con tầu rời bến.

Gia đình họa sĩ C đến bến sau tôi khoảng 10 phút, gồm hai người em gái, họa sĩ cùng vợ. Vốn quen nhau đã lâu, tôi biết rõ tính cách của anh khi giao tiếp, thường có thái độ lạnh nhạt với mọi người, nên tôi chủ động tìm cách gần gũi. Anh đã giới thiệu tôi với vợ anh; mọi việc giao tiếp dường như ủy quyền cho em gái là tiểu thư Marian, một cô gái thông minh và dịu dàng. Chỉ qua vài lời trao đổi tôi đã làm quen với cô gái.

Phu nhân C che mạng kín mặt, và khi nhận ra cử chỉ cúi chào lịch sự của tôi, cô liền vén mạng che mặt lên để đáp lễ. Thoáng nhìn dung nhan của cô ta, tôi rất đỗi ngạc nhiên. Cô ta  nhan sắc tầm thường, chẳng hề có những nét xinh đẹp và quý phái như trước đây họa sĩ C thường mô tả với bạn bè, bằng những lời lẽ và thái độ đầy nhiệt tình và say đắm. Phải chăng vì đã quá đam mê cô gái này, mà bạn tôi đã trở nên dễ tính và có sự châm chước khi nhận xét về nhan sắc cô ta?
Xem tiếp (kỳ 2) tại đây
 
Copyright © 2013 Món ăn tinh thần | Powered by Blogger