Saturday, November 29, 2014

Anh Ninh



Vương Tử Phục, người La Ðiếm, huyện Cử. Sớm mồ côi cha, thông tuệ rất mực, mười bốn tuổi đã vào học nhà phán. Mẹ hết đỗi cưng yêu, bình thường không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Ðã hỏi con gái họ Tiêu, nhưng chưa cưới thì nàng mất. Vì thế việc nhân duyên vẫn chưa thành.

Gặp tiết Thượng Nguyên, có người con nhà cậu là chàng Ngô đến rủ đi chơi. Vừa ra đến đầu xóm thì có đầy tớ nhà cậu sang gọi Ngô về. 

Chàng thấy con gái đi chơi lũ lượt như mây, hứng lên cũng một mình ngao du.

Có một cô gái dắt con hầu đi theo, tay cầm một cành hoa mai, nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tưởng có thể vốc được. 

Chàng nhìn đăm đăm đến nỗi quên cả giữ ý tứ. 

Cô gái đi vượt lên mấy bước, quay sang nói:

Người đâu mà mắt chòng chọc như giặc.

Rồi bỏ cành hoa xuống đất, cười nói mà đi. 

Chàng nhặt cành hoa, buồn thiu, hồn phách xiêu lạc đâu mất, lầm lũi quay về.

Ðến nhà đặt hoa dưới gối, gối đầu lên mà ngủ, không nói cũng không ăn. 

Mẹ đâm lo, đi cầu cúng thì bệnh càng nặng, da thịt gầy tóp. 

Thầy thuốc thăm bệnh, cắt cho thang phát tán, nhưng chàng cứ hốt hoảng như người mê. 

Mẹ dỗ dành hỏi nguyên do, chàng lặng thinh không đáp.

Vừa lúc đó chàng Ngô đến, bà dặn nhỏ chàng hỏi dò riêng xem sao. Ngô vào trước giường; vừa nhìn thấy, chàng đã chảy nước mắt. 

Ngô ghé sát bên giường an ủi, lân la gặng hỏi. 

Chàng bèn thổ lộ thực tình, lại nhờ lo toan hộ. 

Ngô cười đáp:

- Anh cũng lại ngố rồi! Ước muốn đó thì khó gì mà chẳng toại! 

Ðể đấy tôi hỏi dùm cho. 

Cuốc bộ ở giữa đồng, thì hẳn không phải là con nhà thế gia. 

Nếu chưa có đám nào thì việc xong là cái chắc. 

Bằng không, cứ liều vứt nhiều tiền ra thì toan tính gì cũng phải thành. 

Chỉ cần anh thuyên giảm, xong việc là ở tôi.

Chàng nghe vậy bất giác nở nụ cười. 

Ngô trở ra bảo với bà mẹ rồi để dò tìm làng ở của cô gái; song thăm hỏi đã cùng khắp vẫn không dò ra tin tức. 

Mẹ lo lắm, chẳng biết tính thế nào. 

Nhưng từ sau khi Ngô về rồi thì sắc mặt con tự nhiên tươi tỉnh, ăn uống đã có phần khá hơn .

Mấy hôm sau, Ngô trở lại. 

Chàng hỏi đã lo giúp đến đâu. Ngô vờ vịt nói:

- Xong rồi! 

Cứ tưởng người nào, hoá ra là con gái bà cô tôi, tức là vào hàng em con nhà dì với anh đấy. 

Hiện vẫn còn đợi gả chồng. 

Dẫu họ hàng về đằng mẹ kết thông gia không tiện, nhưng cứ tình thực mà nói thì cũng chẳng có gì không xuôi.

Chàng mừng, rạng rỡ cả mặt mày, hỏi Ngô:

- Thế ở làng nào?Ngô thác rằng:

- ở trong núi, về phía Tây Nam cách đây ngoài ba mươi dặm.

Chàng lại dặn dò nhờ cậy đến năm lần bảy lượt. 

Ngô cũng sốt sắng tự xin đảm nhận, rồi lui gót. 

Từ đấy chàng ăn uống ngày một khá hơn, sức khoẻ dần dần bình phục. 

Lật gối lên xem, hoa tuy khô nhưng vẫn chưa tàn héo hẳn. 

Mải mê cầm ngắm, tưởng như còn thấy được người.

Mãi sau lấy làm lạ sao Ngô không đến, bàn viết giấy mời, thì Ngô kiếm cớ chối từ không chịu đến. 

Chàng tức giận, buồn bã không vui. 

Mẹ lo bệnh con lại tái phát, vội bàn chuyện hôn nhân, nhưng mới trao đổi sơ qua, đã lắc đầu không chịu, chỉ ngày ngày ngóng đợi chàng Ngô. 

Cuối cùng tin tức về Ngô cũng bặt, chàng càng thêm ức. 

Rồi bỗng vụt nghĩ rằng ba mươi dặm cũng chằng lấy gì làm xa, hà tất phải ỷ lại vào người khác. Bèn giấu cành mai vào tay áo, tức mình cất bước ra đi, mà người nhà chẳng một ai hay.

Lủi thủi cuốc bộ một mình, không có ai để hỏi đường, chỉ nhắm mắt hướng núi Nam đi tới. 

Ðược chừng hơn ba mươi dặm, thấy núi mọc ngổn ngang, lô nhô chồng chất; xanh rợp tầng không, mát rợi da thịt; vắng vẻ tịch mịch không một bóng người, chỉ có đường chim bay. 

Xa xa trông xuống dưới khe núi trong chỗ cây cối um tùm chằng chịt hoa nở từng đám dày, thấp thoáng như có một xóm nhỏ. 

Xuống núi, vào trong xóm, thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh, mà xem chừng lại rất thanh nhã. 

Một ngôi nhà hướng Bắc, trước cửa buông đẳu tơ liễu, trong tường đào hạnh lại càng sum suê, chen lẫn với những khóm trúc vươn dài; chim rừng kêu lách chách ở trong. 

Chàng cho là nơi vườn cảnh của ai, không dám đường đột bước vào. 

Quay nhìn phía đối diện với cánh cổng, thấy có hòn đá lớn trơn nhẵn, sạch sẽ, bàn ngồi lên đó tạm nghỉ. 

Giây lát nghe phía trong tường có tiếng một người con gái dài giọng gọi: 

Tiểu Vinh , tiếng nghe êm ái, nhỏ nhẹ. 

Ðang chăm chú lắng nghe, thấy một cô gái từ phía Ðông rảo sang phía Tây, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi đầu cài lên mái tóc; vừa ngẩng đầu lên trông thấy chàng liền không cài nữa, mỉm cười cầm đóa hoa đi vào. 

Nhìn kỹ lại thì đúng là người mình đã gặp hôm trên đường đi chơi tiết Thượng Nguyên. 

Trong lòng mừng quýnh lên, chỉ nghĩ không lấy cớ gì mà vào được, muốn gọi bằng cô em con dì, lại e từ thuở nào đến giờ không hề đi lại, nhỡ ra có nhầm lẫn chăng.

Trong cửa không có một ai để hỏi, đành quẩn quanh hết ngồi lại đứng từ sớm mãi đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng, quên cả đói khát. 

Thỉnh thoảng thấy cô gái hé nửa mặt ra nhòm, tựa hồ lấy làm lạ sao mình vẫn không bỏ đi. 

Bỗng có một bà già chống gậy đi ra, hướng vào chàng mà hỏi:

- Chàng trai ở đâu, nghe như từ giờ thìn đã đến đây, ở mãi cho đến bây giờ. giả cần gì? 

Chàng vội đứng dậy vái chào, đáp rằng:

- Ðịnh tìm thăm người bà con.

Bà cụ nghễnh ngãng nghe không rõ. Chàng lại phải nói to lên. 

Bà cụ hỏi:

- Vậy chứ quý vị thân thích họ gì ?

Chàng không sao trả lời được. Bà cười bảo:

- Kỳ chưa! Ðến họ tên còn không biết thì biết bà con như thế nào mà tìm thăm? 

Tôi xem bộ cậu cũng chỉ là tay nghiện sách mà thôi. 

Chi bằng hãy theo tôi vào đây, lót lòng lưng cơm hẩm; nhà có chiếc giường con cũng ngả lưng được. 

Ðợi sáng mai về hỏi lại cho biết họ gì, rồi tìm thăm cũng chưa muộn.

Chàng đang lúc bụng đói muốn ăn, lại được vào đó lân la gần gụi người đẹp, thì mừng quá, bèn theo bà già đi vào. 

Thấy trong cổng, lối đi lát toàn đá trắng, hai bên đường, hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thảm. 

Quanh co đi về phía Tây, lại mở ra một cửa ngăn nữa, phên đậu giàn hoa lan đầy giữa sân. 

Cung kính dẫn khách vào nhà, tường phấn sáng rỡ như lồng kính; ngoài song, những cành hoa hải đường thò vào cả trong nhà; đệm chiếu, ghế giường, không một thứ gì không bóng lộn, sạch sẽ. 

Vừa ngồi xuống đã thấy có bóng người từ ngoài cửa sổ thấp thoáng nhòm trộm. 

Bà cụ gọi:

- Tiểu Vinh! Khá làm cơm mau!

Bên ngoài có tiếng dạ to của con hầu.

Ngồi đâu đấy rồi bàn bày tỏ dòng dõi. 

Bà già hỏi:

- Ông ngoại của cậu chẳng biết có phải họ Ngô không?

Ðáp:- Thưa phải.

Bà cụ kinh ngạc nói:

- Thế thì cậu là cháu của ta. 

Mẹ cậu là em gái ta. 

Mấy năm nay vì gia cảnh bần hàn, lại không có chút con trai, nên việc thăm hỏi mới để đến thưa bẵng đi. 

Cháu đã khôn lớn thế này rồi mà vẫn không biết.

Chàng đáp:- Lần này cháu đến đây là để hỏi thăm dì, mà trong khi vội vàng thành ra quên mất cả họ.

Bà cụ đáp:

- Già đây lấy về họ Trần, không sinh nở bận nào cả. Chỉ có một mụn con gái, cũng là con dì hai nó sinh ra. 

Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng. 

Kể cũng chẳng đến nỗi đần, chỉ hiềm ít được dạy dỗ, nên cứ cười cợt suốt, chẳng biết buồn lo gì cả. 

Chốc nữa sẽ bảo ra chào anh cho biết.

Chẳng mấy lúc, con hầu đã dọn cơm lên; có món gà tơ đang độ béo. Bà cụ ngồi tiếp chàng; cơm xong rồi con hầu lại đến dọn đi. Bà bảo:

- Gọi cô Ninh ra đây!Con hầu vâng lời đi vào. Lúc lâu, nghe như ngoài cửa có tiắng cười, bà cụ lại gọi:

- Anh Ninh! 

Có người anh con dì mày ở đây đấy!

Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng. Con hầu đẩy cô gái vào, vẫn còn che miệng cười không nín được. Bà già chừng mắt bảo:

- Nhà đương có khách, mà cứ khúc kha khúc khích, là cung cách gì thế? Cô gái nhịn cười đứng yên. 

Chàng vái chào. 

Bà cụ nói:

- Ðây là cậu Vương, anh con dì của mày. Người trong một nhà mà không biết nhau, thế mới đáng cười chứ! 

Chàng hỏi:- Em đây năm nay bao nhiêu tuổi? Bà già chưa nghe kịp. Chàng bèn nhắc lại. 

Cô gái lại rũ ra cười, không ngẩng đầu lên nhìn ai được nữa. Bà cụ bảo chàng:

- Tôi vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà vẫn ngây dại như trẻ con.

Chàng đáp:-

 Thua cháu một tuổi. Bà nói:

- Cháu đã mười bảy rồi, thế chẳng hóa ra là tuổi canh ngọ, cầm tinh con ngựa ư?

Chàng gật đầu thừa nhận. Lại hỏi:

- Thế vợ cháu là ai? Ðáp rằng:- Vẫn ở không ạ!

Bà bảo:

- Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Anh Ninh cũng chưa hứa gả về đâu, kể sánh với nhau thật xứng đôi, chỉ hiềm có chút họ hàng đằng mẹ.

Chàng không đáp, mắt cứ nhìn dán vào Anh Ninh, không còn rời đi đâu một chớp. Con hầu quay sang cô gái nói nhỏ rằng:

- Vẫn con mắt chòng chọc như giặc cấm không có thay đổi.

Nàng lại cười to, ngoảnh lại bảo con hầu:

- Ta đi xem bích đào nở chưa đi!

Rồi vụt đứng ngay dậy, lấy tay áo che miệng, rón rén gót sen bước nhanh ra, khỏi cửa rồi tiếng cười mới phá lên. 

Bà già cũng đứng dậy, gọi con hầu mang chăn chiếu để xắp đặt chỗ nghỉ cho chàng. Bà bảo:

- Cháu một lần đi không phải dễ, hẵng ở chơi dăm ba hôm thư thả rồi sẽ tiễn mày về. 

Nếu hiềm vì vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con, cũng đủ làm nơi tiêu khiển; có cả sách nữa, cháu có thể đọc chơi.

Hôm sau, chàng ra phía sau nhà, quả có thửa vườn chừng nửa mẫu, cỏ mịn như rải thảm, hoa dương rắc lấm tấm đầy lối đi. Ba gian nhà cỏ, cây và hoa vây phủ bốn chung quanh. 

Ðang luôn trong hoa nhích từng bước, chợt nghe trên ngọn cây có tiếng khinh khích , ngẩng lên nhìn thì ra Anh Ninh đang ở trên đó, thấy chàng đến cười rũ lên muốn ngã. 

Chàng vội kêu:- Ðừng thế, ngã đấy!

Nàng vừa tụt xuống vừa cười, không sao nhịn được. 

Gần đến đất, tuột tay ngã, tiếng cười mới tắt. 

Chàng đỡ dậy, ngầm chạm vào cổ tay, lại rũ ra cười, phải dựa vào thân cây, không sao bước được nữa, một lúc lâu mới hết. 

Chờ cho ngớt cơn cười, chàng mới rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy, nói:

- Khô rồi, còn giữ làm gì?

Vương đáp:

- Ðây là hoa em bỏ lại hôm tiết Thượng Nguyên, nên mới giữ.

Anh Ninh hỏi:- Giữ thế là có ý gì? 

Vương đáp:

- Ðể tỏ rằng yêu thương nhau không quên được. 

Kể từ hôm tiết Thượng Nguyên, được gặp, cứ tơ tưởng đến thành bệnh. 

Những tưởng phận mình đã hóa ra ma rồi, nào ngờ lại còn được thấy mặt. 

Xin hãy rủ lòng thương xót.

Cô gái đáp:

- Ðấy là việc quá nhỏ mọn. Chỗ họ thân nào có tiếc gì. 

Ðợi hôm nào anh đi, các thứ hoa trong vườn, sẽ gọi lão bộc đến, bẻ hẳn một ôm lớn đội theo tiễn anh.

Chàng nói:

- Em ngây đấy ư?- Thế nào là ngây? Vương đáp:

- Anh chẳng phải yêu hoa mà yêu người cầm hoa cơ.

Nàng nói:

- Tình thân họ hàng, yêu nhau còn phải nói gì?

Chàng đáp:

- Anh nói yêu, chẳng phải là cái tình yêu họ hàng giây mơ rễ má, mà là tình yêu vợ chồng kia.

Cô gái nói:

- Có gì khác nhau sao? 

Vương đáp:

- Ðêm thì cùng chung chăn gối.

Cô gái cúi đầu nghĩ ngợi giây lâu, nói:

- Em không quen ngủ với người lạ.

Nói chưa dứt lời, con hầu đã rón rén đi đến. 

Chàng hoảng sợ, vội lẩn đi. Lát sau, cùng họp mặt ở chỗ bà mẹ. Mẹ hỏi đi đâu, cô gái đáp rằng ở trong vườn trò chuyện.

Bà cụ hỏi:

- Cơm đã chín lâu, có gì dài lời mà con cà con kê mãi thế?

Nàng đáp:

- Anh cả muốn cùng con ngủ chung.

Nói chưa hết câu chàng đã cuống cả lên, vội đưa mắt lườm. Nàng mỉm cười ngừng ngay lại. 

May bà già không nghe rõ, còn phải lẵng nhẵng hỏi lại. 

Chàng vội đem chuyện khác lấp liếm đi. 

Nhân đó, khẽ rỉ tai trách riêng nàng. 

Cô gái hỏi:

- Thế chuyện ấy không nên nói à?

Chàng đáp:

- Ðó là chuyện phải giấu người khác.

Nàng bảo:

- Giấu người khác, chứ giấu mẹ già sao được. Vả lại, ngủ đâu là chuyện thường, việc gì phải kiêng không nói.

Chàng bực vì nỗi ngố, không cách gì làm cho hiểu ra được.

Ăn vừa xong thì gia nhân dắt hai con lừa đến tìm chàng. 

Số là, bà mẹ đợi lâu không thấy con về, sinh nghi, cho tìm kiếm hầu khắp mọi chỗ trong làng, cũng không thấy tăm hơi gì cả, bàn đến hỏi Ngô. 

Ngô nhớ ra lời mình nói trước đây, liền bảo đến xóm núi Tây Nam mà tìm. 

Ði lần qua hết mấy hôm mới đến được đây. 

Chàng tình cờ ra cửa thì gặp nhau, bèn trở vào thưa bà già, lại xin được dẫn cô gái về cùng. 

Bà cụ mừng nói:

- Ta vẫn có ấy từ lâu rồi, hiềm vì tấm thân già yếu không thể đi xa được. 

Nay được cháu dẫn em nó về, để nhận dì, thì tốt quá

Bà gọi Anh Ninh., Ninh cười, bước ra. Bà nói:

- Có gì vui mà cười hoài không ngớt thế? 

Giá không cười thì cũng được là người toàn vẹn rồi đấy.

Bà nhân đấy lừ mắt giận dữ, rồi bảo:

- Anh cả muốn mày đi cùng, hãy vào sắm sửa hành trang đi!

Lại dọn cơm rượu thắt đãi người giai nhân, rồi mới tiễn ra cửa, nói:- Nhà dì ruộng nương dư dật, đủ sức nuôi người ăn dưng. 

Ðến đấy hãy khoan về, cố học lấy chút thi lễ, để biết đường thờ phụng bố mẹ chồng rồi sẽ cậy bà dì kiếm cho mày một tấm chồng xứng đáng.

Hai người bàn khởi hành. 

Ðến vạt núi trũng, quay lại nhìn, còn lờ mờ thấy bà cụ tựa cửa trông về hướng Bắc.

Về tới nhà, mẹ nhìn thấy cô gái xinh đẹp, kinh ngạc hỏi là ai. 

Chàng đáp là con bà dì. Mẹ nói:- 

Những điều anh Ngô nói với con dạo trước là dối đấy. 

Mẹ chưa từng có chị, sao lại có cháu con dì được?

Hỏi cô gái, nàng đáp:

- Tôi không phải là do mẹ đẻ ra. 

Bố vốn họ Tần, lúc mất, con còn nằm trong tã, nên không thể nhớ được gì.

Bà mẹ nói:

 Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao lại còn được?

Nhân hỏi kỹ những dấu vết trên mặt, nốt ruồi, cục bướu, nhất nhất đều phù hợp.

Lại ngờ ngợ mà nói:

- Thế thì phải đấy! Nhưng chết đã bao năm nay rồi, làm gì mà còn được đến giờ?

Giữa lúc đang ngẫm nghĩ nghi hoặc thì chàng Ngô đến, cô gái lánh vào nhà trong. 

Ngô hỏi biết duyên cớ, ngẩn ra một lúc hồi lâu rồi chợt hỏi:

- Cô gái này có phải tên là An Ninh không?

Chàng bảo phải. 

Ngô vội nói ngay là chuyện lạ lùng. 

Hỏi vì sao mà biết. Ngô đáp:

- Từ sau khi cô Tần mất, dượng ấy ở góa, bị hồ ám, mang bệnh mỏi mòn mà chết. 

Hồ sinh một gái tên là An Ninh, vẫn quấn tã giữa đường, gia nhân đều trông thấy cả. 

Dượng mất rồi, hồ thỉnh thoảng còn tới, sau xin bùa của thiền sư dán lên vách, hồ mới ôm con gái bỏ đi. 

Chẳng lẽ lại là đấy chăng?

Bên nào bên ấy cũng bàn qua tán lại những đìêu còn nghi ngờ. 

Chỉ nghe buồng trong vẳng ra những tiếng khúc khích, đều là tiếng cười của An Ninh. 

Bà mẹ bảo:

- Con bé này cũng ngớ ngẩn quá thể!

Ngô xin cho xem mặt. Mẹ vào nhà trong, nàng còn rũ ra cười không ngoái lại. 

Mẹ giục bảo ra, mới cố sức nín cười, lại phải ngoảnh mặt vào vách mất một lúc mới ra được. 

Vừa mới vái chào, đã xoay mình trở vào rất lẹ, rồi buông tiếng cười to. 

Ðàn bà con gái đầy nhà, ai cũng đều cười vui theo nàng.

Ngô xin đi dò xét sự lạ, tiện thể sẽ làm mối luôn. 

Tìm đến xóm nọ, nhà cửa đều chẳng thấy đâu, chỉ có hoa rừng rơi rụng mà thôi. 

Ngô nhớ lại nơi chôn bà cô, phảng phất đâu đây không xa lắm, nhưng phần mộ đã bị lấp mất, chẳng còn nhận ra được, đành thở than mà quay về.

Bà mẹ ngờ cô gái là ma. 

Vào buồng thuật lại những lời Ngô vừa nói, nàng không mảy may tỏ sợ hãi. 

Lại xót cho nàng không có nhà cửa gì, cũng không hề có buồn rầu, cứ rúc rích cười hoài mà thôi. 

Mọi người không mảy may nghi ngờ

Mẹ bảo cùng ngủ với bọn con gái; sáng tinh mơ đã đến vấn an. Giữ việc nữ công, tinh xảo không ai bì. 

Chỉ phải cái tật hay cười, cấm cũng không nhịn được. Song nét cười rất tươi, dẫu cười đến phát rồ cũng không giảm vẻ yểu điệu, ai thấy cũng vui thích. 

Ðàn bà con gái láng giềng thường tranh nhau mời đón nàng.

Mẹ đã chọn ngày tốt để cho làm lễ hợp cẩn, mà vẫn cứ sợ là ma; bèn rình lúc nàng đứng dưới bóng mặt trời nhòm xem, thì hình bóng không có gì khác lạ. 

Ðến ngày đã định, bảo nàng trang sức đẹp đẽ để làm lễ cô dâu. 

Cô gái cười quá, không thể cúi xuống, ngẩng lên được, đành phải thôi.

Chàng thấy vợ ngây dại, sợ nàng đem những chuyện kín trong phòng riêng tiết lộ ra ngoài, nhưng cô gái lại hết sức kín đáo, một câu cũng không nói.

Mỗi khi mẹ có điều lo giận, nàng dâu đến, chỉ cười một tiếng là lập tức nguôi hết. 

Ðầy tớ, con hầu có lỗi nhỏ, sợ bị roi vọt liền cầu xin nàng đắn nói chuyện với mẹ; nhờ thế chúng đến chịu tội thường được tha. 

Mà nàng yêu hoa thành nghiện, vẫn tìm kiếm khắp nơi trong thân thích xóm làng, lại phải cầm trộm cả thoa vàng đi, để mua cho được giống hoa đẹp, mới có vài tháng mà thềm hè, bờ giậu, chuồng lợn hố tiêu, không chỗ nào không có hoa.

Sân sau có một giàn mộc hương, vốn ăn liền với nhà láng giềng phía Tây. Nàng vẫn thường vin cây trèo lên, hái hoa cài đầu chơi. 

Mẹ thỉnh thoảng bắt gặp lại mắng, mà nàng rốt cuộc vẫn không chừa. 

Một hôm, con trai nhà phía Tây trông thấy, ngây ra nhìn, lòng dường điên đảo. 

Cô gái không tránh mặt mà lại cười. 

Con trai nhà phía Tây nghĩ rằng nàng đã thuận, bụng càng khao khát. 

Nàng chỉ tay vào chân tường, rồi cười mà trèo xuống. 

Con trai nhà phía Tây cho là nàng trỏ nơi hò hẹn, sướng quá đỗi. Ðến tối mò ra, thì nàng đã ở đấy thật. 

Sáng đêm hành dâm, thì chỗ kín như bị mũi dùi đâm, đau buốt đến tận tim, kêu rú lên mà ngã vật ra. 

Nhìn kỹ lại thì chẳng phải là cô gái, chỉ là một cây khô nằm ở bên tường, chỗ mình chọc vào là một cái hốc rịn nước. 

Ông bố nhà láng giềng nghe tiếng con kêu, vội chạy ra hỏi xem, chỉ rên rỉ không nói. 

Vợ đến, mới chịu nói thực. 

Ðốt đuốc soi vào thấy trong hốc cây có một con bọ cạp lớn như con cua con. 

Ông bố bổ cây ra, bắt giết đi, rồi vực con về, nửa đêm thì rằng.

Nhà láng giềng đâm đơn kiện chàng, cáo giác Anh Ninh là yêu quái. 

Quan huyện vốn ngưỡng mộ tài học của chàng, lại biết chàng là một học trò năng trau dồi đức hạnh, cho rằng nhà láng giềng kiện xằng, toan nọc ra đánh. 

Chàng xin cho, mới được phóng thích mà về. Bà mẹ bảo rằng:

- Cứ ngây dại như thế mãi, từ sớm đã biết vui quá hoá lo mà. 

May được quan huyện sáng suốt như thần nên mới không liên luỵ, chứ nếu gặp phải hạng quan hồ đồ hẳn đã bắt đàn bà con gái đến chất vấn ở công đường, thì con ta mặt mũi nào nhìn thấy họ hàng làng xóm nữa?

Cô gái liền nghiêm sắc mặt lại, kể từ đó không cười nữa. 

Mẹ bảo:

- Người ta ai mà không cười, nhưng cười cũng phải có lúc.

Thế mà từ đấy về sau nàng không cười nữa thật, dù cố trêu, vẫn không bao giờ cười, nhưng suốt ngày chưa hề lúc nào có vẻ mặt đăm chiêu.

Một đêm, nàng nhìn chàng ứa nước mắt. 

Chàng lấy làm lạ, thì nàng nghẹn ngào nói:

- Trước đây, vì gần gũi chưa lâu, nói ra sợ cho là quái gở mà đâm hoảng. 

Nay xét ra, mẹ và chàng đều quá yêu, không có bụng gì khác, đành xin thưa thực, may không hại gì chăng? 

Thiếp vốn do hồ sinh ra. Lúc mẹ thiếp sắp bỏ đi, đem thiếp gửi lại cho bà mẹ ma, nương nhờ nhau đã hơn mười năm mới có ngày nay. 

Thiếp lại không có anh em, chỉ trông cậy vào một mình chàng. Mẹ già nằm cô quạnh nơi góc núi, không ai thương xót mà hợp táng cho, dưới chín suối vẫn còn sầu tủi. 

Nếu chàng không tiếc chút phí tổn, khiến cho người nằm dưới đất tiêu tan được khối hận đó, thì ngõ hầu những kẻ nuôi con gái về sau không còn nỡ đem con dìm nước bỏ đi nữa.

Chàng nhận lời, nhưng lo phần mộ đã bị lẫn, giữa cỏ rậm. 

Cô gái nói rằng không lo. 

Bèn định ngày, vợ chồng xe quan tài đem đi. 

Giữa đám mây khói hoang vu, gai góc chằng chịt, cô gái chỉ đúng phần mộ, quả thật đào được thi thể bà già, da thịt vẫn còn. 

Nàng ôm lấy khóc thảm thiết. Rồi cùng đưa về, tìm mộ người chồng họ Tần mà hợp táng.

Ðêm hôm đó chàng nằm mơ thấy bà già trở về tạ ơn. 

Tỉnh dậy thuật lại với nàng. 

Nàng đáp:

- Hồi đêm thiếp có trông thấy, chỉ dặn đừng làm chàng kinh động mà thôi.

Chàng ân hận không giữ bà cụ lại chơi. 

Nàng đáp:

- Ðấy là ma, nơi có người sống nhiều, khí dương thịnh, ở lâu sao được? Chàng hỏi đến Tiểu Vinh. 

Nàng đáp:

- Nó cũng là hồ, rất linh lợi, mẹ hồ thiếp giữ lại để trông nom thiếp, thường vẫn đút bánh cho thiếp ăn, nên nhớ ơn nó không bao giờ quên. 

Ðêm qua hỏi mẹ, thì nói đã gả chồng cho nói rồi.

Từ đó hàng năm, gặp ngày hàn thực vợ chồng lại đi thăm mộ ông bà Tần khấn vái quét dọn, không năm nào bỏ sót. 

Ðược hơn một năm, cô gái sinh được một con trai, lúc còn bế ẵm đã không sợ người lạ, thấy người là cười, hệt như phong thái của mẹ.
(Nguyên tác Bồ Tùng Linh - Nguyễn Huệ Chi dịch)
Theo vnthuquan.net

Vương Thành

                                      Ảnh minh họa

Vương Thành, con nhà thế tộc lâu đời ở Bình Nguyên, tính lười biếng, sinh nhai ngày càng sa sút, chỉ còn mấy gian nhà nát, vợ chồng đêm nằm đắp mảnh vải bố, nhiếc móc nhau đũ điều. 

Bấy giờ là tiết đại thử, khí trời nung nấu. 

Trong làng có cái vườn cũ của họ Chu, tường vách đã đổ nát, chỉ còn một cái đình, người làng vẫn đến đấy ngủ nhờ, Vương cũng thế. 

Một hôm trời sáng , mọi người đi cả rồi, mặt trời đã lên cao ba con sào, Vương mới dậy, quanh quẩn định về, chợt thấy trong đám cỏ có chiếc thoa vàng, nhặt lên xem thấy có khắc mấy chữ nhỏ 'Phủ Nghi Tân chế tạo' . 

Ông nội của Vương là Nghi Tân trong phủ Hành. 

Những vật cũ trong nhà phần nhiều đều có dấu hiệu ấy, nên chàng nhân cầm chiếc thoa có dáng chần chừ. Bỗng có một bà cụ đến tìm thoa. 

Vương tuy nghèo nhưng tính vốn liêm khiết , liền đưa trả lại. Bà cụ mừng lắm, hết sức khen ngợi tấm lòng cao thượng, bà nói rằng: 

- Chiếc thoa có đáng giá trị là bao, nhưng là chút kỷ vật của ông nhà tôi ngày xưa để lại. 

Vương hỏi: 

- Cụ nhà xưa là ai? 

Ðáp rằng: 

- Ðó là quan Nghi Tân, họ Vương tên Giản Chi đã quá cố. Vương kinh ngạc, nói rằng: - Ông nội tôi đấy! Sao mà gặp nhau với bà được? Bà cụ cũng kinh ngạc nói: 

- Anh là cháu cụ Vương Giản Chi đó sao? 

Ta là hồ tiên một trăm năm trước đây có trao duyên gắn bó với cụ cố nhà anh. 

Cụ cố mất đi, già này tu ẩn, đi qua đây đánh rơi chiếc thoa lại vào tay anh, đó chẳng phải là số trời hay sao? 

Vương cũng đã nghe nói ông nội mình có vợ hồ, cho nên tin lời bà cụ, bèn mời bà hạ cố đến nhà. Bà cụ theo về, Vương gọi vợ ra chào; áo rách bù đầu, sắc mặt đói ăn tối sầm. Bà cụ than rằng: 

- Ôi! Con cháu Vương Giản Chi mà nghèo khổ đến thế này sao? Lại nhìn về phía cái bếp lạnh tanh không có khói lửa mà nói: 

- Gia thế như thế này thì lấy gì mà sống? Người vợ bèn kể hết nỗi khổ, nghẹn ngào sướt mượt. 

Bà cụ đưa chiếc thoa cho chị vợ, bảo hãy cầm cho người ta lấy tiền để đong gạo, rồi ba ngày nữa bà sẽ đến thăm. 

Vương cố giữ lại, bà nói: 

- Anh có một vợ mà nuôi không nổi; ta ở lại đây thì chỉ ngồi mà ngắm xà nhà chứ có ích gì? Nói xong đi liền. 

Vương kể lại đầu đuôi, người vợ sợ quá. Vương ngợi khen tấm lòng ân nghĩa của cụ và bảo vợ phải thờ bà như mẹ. 

Người vợ xin vâng. 

Qua ba ngày, quả nhiên bà già lại đến, đưa ra mấy đồng vàng để đong lúa và mạch, mỗi thứ một thạch. Tối đến, bà cụ và người vợ nằm chung một cái giường bé. 

Chị vợ lúc đầu còn sợ, nhưng xét thấy tình rất mực ân cần, nên cũng không ngờ nữa. Ngày hôm sau, bà cụ bảo Vương rằng: 

- Cháu đừng lười, nên tìm một nghề mọn mà làm, chứ ngồi không mà ăn thì lâu thế nào được? Vương nói mình không có vốn liếng gì cả. Bà đáp: 

- Khi ông nội nhà anh đang còn, thì vàng lụa tha hồ mà lấy, vì ta không phải là người trần, không dùng đến những thứ ấy, nên cũng không lấy nhiều, chỉ dành giữ món tiền phấn sáp được bốn mươi lạng vàng, đến nay vẫn còn, tàng trữ cũng chẳng làm gì. 

Anh hãy đem đi mà mua vải cát cho hết, rồi mang gấp vào kinh thành, có thể có chút lãi. 

Vương theo lời, đi mua hơn năm mươi tấm mang về. 

Bà cụ giục thu xếp hành trang, tính rằng sáu, bảy ngày có thể đến Yên Kinh. Dặn rằng: -

 Chớ lười, nên siêng! Chớ hoãn nên kíp! Chậm trễ một ngày ăn năn chẳng kịp. 

Vương xin kính vâng, xắp hàng vào bao tải rồi lên đường. Giữa đường đi gặp mưa, áo giày ướt sũng. Suốt đời Vương chưa từng dầu dãi gió dầm sương. Vì vậy mệt rũ, chịu không thấu bèn vào nhà trọ tạm nghỉ. 

Ngờ đâu mưa cứ tầm tã mãi đến chiều hôm, nước trên rèm chảy xuống như thừng. Qua một đêm, đường càng lầy lội, người đi ngập đến cổ chân. Vương trong lòng nản lắm. 

Chờ mãi đến giờ ngọ, đường mới hơi khô, nhưng mây đen lại kéo lên, rồi trời lại mưa to. 

Phải ngủ đến hai đêm ở nhà trọ mới đi được. 

Gần đến kinh, nghe đồn giá vải lên cao vọt, trong lòng mừng thầm. 

Vào kinh nghỉ ở quán trọ. 

Chủ quán lấy làm tiếc là Vương đến chậm. 

Trước đó đường giao thông với phía Nam vừa mới được mở, vải cất đến rất ít, các nhà buôn lớn ở kinh đô mua khá nhiều, giá cao gấp ba so với thường ngày, nhưng một ngày trước thì hàng vải ùn đến giá bỗng xuống rất thấp, những người đến sau thất vọng. 

Chủ quán nói rõ đầu đuôi cho Vương biết, Vương ưu uất không vui. 

Qua một ngày qua, vải cát đến càng nhiều, giá càng xuống. 

Vương cho là không có lãi, không chịu bán. Nấn ná đến hơn mười ngày, tiền cơm chưa tính ra đã tốn nhiều, nghĩ càng thêm lo buồn. 

Chủ quán khuyên Vương nên bán rẻ đi, để xoay cách khác. Vương nghe theo bán tháo hết, lỗ vốn mười lượng. Sáng dậy, soạn sửa ra về, mở đẫy ra xem thì bạc đã mất rồi. Hoảng loạn lên báo với chủ quán. 

Chủ quán không biết làm thế nào. Có kẻ bảo Vương lên kêu quan, bắt chủ quán bồi thường, Vương than rằng: 

- Ấy là cái số của ta, chứ chủ quán có lỗi gì? 

Chủ quán nghe vậy, rất mến tấm lòng trung hậu của Vương, tặng năm lạng vàng, kiếm lời an ủi, khuyên về. 

Vương nghĩ bụng, không còn mặt mũi nào gặp lại bà tổ mẫu, loanh quanh hết ra lại vào, tiến thoái đều khó. 

Chợt thấy có người chọi chim Thuần, mỗi lần chọi đặt cuộc đến mấy ngàn, mua mỗi con chim Thuần nhiều khi hơn một trăm đồng tiền. 

Chàng bỗng nảy ra một , tính nhẩm tiền còn trong đáy, may ra chỉ đủ buôn chim Thuần, bèn đem cái này bàn với chủ quán. 

Chủ quán khuyến khích tận tình, lại hứa cho ở nhờ nhà trọ, ăn uống không phải trả tiền, Vương mừng lắm, bèn ra đi, mua đầy một gánh chim Thuần đem về trong thành. 

Chủ quán cũng mừng, chúc cho bán được nhanh. 

Ðến đêm, mưa to mãi đến mờ sáng. 

Khi trời đã sáng hẳn, nước trên đường cái như sông, mà trời vẫn rả rích mưa. 

Ngồi chờ tạnh liên miên mấy ngày, mưa không ngớt hột. 

Dậy nhìn chim Thuần trong lồng thì đã chết mất nhiều. 

Vương sợ lắm, không biết làm thế nào. Sang ngày sau, chết càng nhiều, chỉ còn được mấy con, đem bỏ chung vào một lồng để nuôi. 

Qua đêm, lại ra thăm thì vẻn vẹn còn được một con, bèn chạy vào nói với chủ quán, bất giác ứa nước mắt, chủ quán cũng thương cảm. 

Vương tự liệu, tiền hết không về được, chỉ muốn tìm đường chết. 

Chủ quán khuyên giải an ủi, rồi cùng nhau ra xem con chim còn lại, ngắm nghía rất kỹ, nói rằng: 

- Ðây hình như là một con chim quí ! Những con kia mà chết biết đâu không phải là bị con này chọi chết? Anh bây giờ cũng rỗi không có việc gì, hãy chăm chút tập tành cho nó. 

Nếu quả là con chim hay, thì mang nó đi đánh cũng mưu sinh được. Vương nghe theo. Khi con chim đã thuần thục, chủ quán bảo đem ra đường phố, đánh cuộc lấy rượu thịt. Chim khoẻ lắm, luôn luôn thắng. 

Chủ quán mừng, đưa tiền cho Vương, bảo đem ra quyết ăn thua với đám con em trong làng chơi chim Thuần ở kẻ chợ. 

Ba lần chọi ba lần đều thắng. 

Chừng nửa năm, góp nhóp được hai mươi lạng vàng, trong lòng cũng được an ủi, xem con chim như tính mệnh của mình. 

Thuở đó có một vị Thân Vương rất thích chim Thuần; mỗi năm gặp tiết thượng nguyên, thách dân gian ai có nuôi chim Thuần thì đem đến phủ đệ để chọi. 

Chủ quán bảo Vương rằng: - Giờ đây, cái cơ đại phú đã có thể đến ngay rồi đấy. Chỉ có điều không biết vận may của anh như thế nào thôi! Bèn nói rõ sự tình và đem Vương cùng đi, dặn rằng: 

- Ví thử có thua thì nín hơi mà đi ra thôi! 

Còn như vạn nhất con Thuần mình đấu thắng thì Thân Vương thế nào cũng hỏi mua, anh đừng nhận bán; nếu gạn hỏi thì cứ nhìn vào cái đầu của tôi, chờ khi nào đầu tôi gật thì hẵng ngả giá! 

Vương nói: 

- Ðược! Vào đến phủ thì thấy những người chọi chim sát vai nhau đứng cả ở dưới thềm. 

Chốc lát Thân Vương ngự ra trên điện, tả hữu truyền rằng có ai muốn chọi thì cho lên. Liền có một người xách lồng bước bậc mà lên trên điện. 

Thân Vương sai thả chim Thuần ra. 

Khách cũng thả. Mới nhảy đá qua loa, con chim của khách đã thua chạy. Thân Vương cả cười. 

Chỉ một lúc, người đến chọi mà thua đã có đến mấy vị. 

Chủ quán nói: - Ðến lúc rồi! Bèn cùng nhau bước tới bậc mà lên. 

Thân Vương xem tướng con chim của Vương mà nói: 

- Tròng mắt có vằn máu giận dữ,cũng là một cánh hùng kiện đây! không nên khinh địch. 

Bèn truyền lệnh cho đem con Mỏ Sắt ra nghênh chiến. 

Mới nhảy vọt đấu đá vài lần mà con chim của Thân Vương đã sả cánh. Lại chọn một con chim giỏi hơn đem ra, hai lần đổi, hai lần thua. Thân Vương cấp tốc truyền lệnh vào lấy con Ngọc Thuần của nội cung. 

Một lát mới thấy đem ra, lông trắng như cò, thần khí hùng dũng khác thường. Vương Thành thấy thế, trong lòng nao núng, bèn quỳ xuống xin thôi, nói rằng: 

- Con chim của Ðiện Hạ là chim thần, sợ đánh giết mất chim tôi thì tôi sạt nghiệp mất! Thân Vương cười rằng: 

- Cứ thả ra cho nó chọi, chẳng may nó chết thì ta sẽ đền bù cho thật hậu. 

Thành bèn thả chim mình ra. 

Con Ngọc Thuần xông thẳng đến. Nhưng khi Ngọc Thuần đang chạy tới thì con Thuần của Vương nằm phục xuống như con gà dữ để đợi. Con Ngọc Thuần mổ vào nó thật mạnh, nó liền nhảy phắt lên như con hạc bay liệng để đánh lại. 

Khi tiến, khi lui, khi trên, khi dưới, cầm cự với nhau áng chừng một khắc, thì con Ngọc Thuần lơi dần, mà con Thuần của chàng giận càng sôi, đánh đá càng gấp. 

Chẳng mấy chốc bộ lông tuyết của Ngọc Thuần rụng xơ ra, rồi sã hai cánh chạy trốn. 

Cả ngàn người đứng xem, không ai là không tấm tắc khen ngợi. 

Vị Thân Vương bèn bảo bắt nó lên, thân hành cầm lấy xem xét một lượt từ đầu mỏ đến móng chân, rồi hỏi Thành rằng: 

- Con chim này anh có bán không? Thành đáp: 

- Tiện nhân nghèo khó, phải nương nhờ vào nó mà sống, không dám bán. Thân Vương nói: 

- Ta trả giá cao, anh sẽ có một gia tư bậc trung, có bằng lòng không? 

Thành cúi đầu suy nghĩ giây lâu mới nói: 

- Thật quả không muốn để lại, nhưng nay Ðiện Hạ đã yêu thích nó; nếu khiến cho tiện dân được có ăn mặc, thì còn đòi gì hơn. 

Thân Vương hỏi giá, Thành xin ngàn lạng vàng. Thân Vương cười rằng: 

- Cái anh ngốc này, nào có phải châu ngọc gì mà giá ngàn vàng? Vương nói: 

- Ðiện hạ không cho nó làm báu, nhưng với hạ thần thì ngọc bích liên thành cũng chẳng bằng! 

Thân Vương hỏi: 

- Thế nào? 

Thành đáp: 

- Tiện dân đem nó ra chợ, mỗi ngày được vài đồng, đổi thưng đấu gạo, một nhà mười miệng ăn, nhờ đó mà không đến nỗi đói rét, còn của báu nào bằng? 

Thân Vương nói: 

- Tôi không để anh thiệt đâu, thôi trả anh hai trăm đồng. 

Thành lắc đầu; lại trả thêm một trăm. 

Thành đưa mắt nhìn chủ quán. 

Chủ quán không động đậy. Thành bèn nói: 

- Thưa mệnh Ðiện Hạ, xin bớt một trăm. Thân Vương nói: 

- Thế thì thôi vậy, ai đời lại đem chín trăm lạng đổi lấy một con chim Thuần bao giờ? 

Thành xách lồng chim lên định đi thì Thân Vương gọi: 

- Này anh chọi chim, lại đây!

 Lại đây! 

Tôi dứt khoát trả anh sáu trăm đồng. Bằng lòng thì để, không bằng lòng thì thôi vậy! 

Thành lại đưa mắt về phía chủ quán. 

Chủ quán vẫn điềm nhiên. 

Ý nguyện của Thành đã hoàn toàn thoả mãn, chỉ sợ nhỡ mất thời cơ, bèn nói: 

- Với cái giá của Ðiện Hạ, thật không hài lòng, nhưng đã y ước với nhau mà lại không xong, sợ mắc lỗi thất kính càng lớn cực chẳng đã, xin y theo mệnh lệnh của Ðiện Hạ. 

Thân Vương mừng rỡ, cho người cân vàng đưa ngay, Thành nhận vàng, lạy tạ mà đi ra. 

Chủ quán giận, trách rằng: 

- Tôi bảo anh thế nào mà đã vội vã bán đi như thế ? Nếu kéo thêm một chút nữa thì đã có tám trăm cầm tay rồi! 

Thành về nhà trọ, đặt vàng lên án mời chủ quán tự lấy. 

Chủ quán không chịu, Thành ép mãi mới đem bàn tính ra, tính toán đủ tiền phí tổn ăn uống mà nhận. 

Thành xắp đặt hành lý ra về. 

Ðến nhà, thuật lại những việc đã làm, bỏ vàng ra cùng mừng với nhau. 

Bà cụ bảo tậu ba trăm mẫu ruộng tốt, dựng nhà cửa, sắm đồ đạc, nghiễm nhiên là một thế gia. 

Bà cụ dậy sớm, đôn đốc cho Thành trông nom việc cày bừa, vợ trông nom việc canh cửi, hơi lơ là thì quát tháo, mà vợ chồng vẫn không hề oán thán. 

Qua ba năm, nhà càng giàu, bà cụ ngỏ ý muốn đi, vợ chồng cố giữ lại, đến chảy nước mắt. Bà bèn ở lại. Sáng ngày vào hầu, thì đã mất hút. 
(Nguyên tác Bồ Tùng Linh - Cao Xuân Huy dịch)
Theo vnthuquan.net

Thụy Vân

                                      Ảnh minh họa

Thuỵ Vân là danh kỹ của đất Hàng Châu . Nhan sắc tài nghệ có một. Năm tuổi mười bốn, mẹ là mụ đầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách. 

Thụy Vân thưa rằng:

- Ðây là lúc bánh xe duyên nghiệp của đời con bắt đầu vận chuyển, không nên qua loa cẩu thả . 

Giá thì do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn.

Mẹ bảo được, bèn định giá mười lăm đồng vàng rồi hàng ngày ra tiếp khách.

Khách muốn gặp thì phải có lễ, lễ hậu mới được tiếp một ván cờ, một bức tranh, lễ bạc thì giữ lại uống chén trà mà thôi.

Thuỵ Vân lừng tiếng đã lâu, từ đó các bậc đại thương, giới quyền quí, ngày ngày nối gót nhau vào.

Giới Trấn Dư Hàng có người thư sinh họ Hạ, tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư chỉ vào bậc trung. 

Chàng vốn ngưỡng mộ Thụy Vân, nhưng chưa dám nghĩ đến giấc mộng uyên ương, cũng gắng hết sức sắm được chút lễ mọn, chỉ mong một phen nhìn ngắm mặt hoa, mà vẫn thầm lo nàng tri đời đã nhiều sẽ không đoái hoài gì đến một kẻ sĩ bần rách như mình. 

Ðến lúc gặp mặt, trò chuyện dăm câu, nàng đã tiếp đãi rất mực ân cần. 

Ngồi nói chuyện giờ lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình . Lại tặng chàng bài thơ :

Việc gì kẻ xin nước 

Cầu lam phải nệm sương?

Có lòng tìm chày ngọc,

Ngay giữa chốn người thường.

Ðược thơ, chàng mừng rỡ như cuồng, còn muốn nói gì nữa, bỗng con hầu vào báo khách đến, bèn vội vàng từ biệt. 

Về nhà, đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, tơ lòng vương vít. 

Ðược một hai ngày, cầm lòng không đậu, lại phải sắm sửa lễ vật rồi trở lại.

Thụy Vân đón tiếp niềm nở, dần dần ngồi dịch lại gần chàng, nét mặt rầu rầu mà rằng:

- Có thể lo toan được một đêm sum họp với nhau không?

Chàng rằng:

- Học trò túng kiết chỉ có cái tấm tình si là có thể đem tặng tri kỷ; sắm được cái lễ biếu nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết; được gần mặt hoa là mãn nguyện lắm rồi, còn như tựa gió kề hoa dám đâu mộng tưởng.

Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau mà không nói gì.

Chàng ngồi lâu không ra; mụ chủ giữ mấy lần gọi Thụy Vân, có thúc giục chàng về đi. 

Chàng bèn ra về, trong lòng buồn rười rượi. 

Muốn khánh kiệt gia sản để chuốc một lần vui, nhưng lại nghĩ, sum họp một đêm rồi phải ly biệt suốt đời, tình trạng ấy chịu làm sao nổi. 

Trù tính đến đấy thì nỗi lòng hăm hở đều tiêu mất hết.

Từ đó bặt không có tin tức vãng lai gì.

Thụy Vân kén khách mở khoá động đào mấy tháng mà chưa chọn được nơi nào xứng đáng. 

Mụ dầu khá bực tức, rắp toan ép uổng duyên nàng nhưng cũng chưa ra tay. 

Một hôm, có chàng tú tài đem lễ biếu đến xin ra mắt, ngồi nói chuyện chốc lát liền nhổm dậy, lấy ngón tay ấn lên trán nàng mà nói: 

"Ðáng tiếc, đáng tiếc" rồi bỏ đi.

Thụy Vân tiễn khách ra, trở lại , thì mọi người đều thấy trên trán nàng có dấu tay in đen như mực, càng rửa càng thêm rõ.

Sau đó vài ngày vết mực dần dần lan rộng, hơn một năm sau thì lan khắp trán, đến cả mũi nữa. 

Ai thấy cũng cười mà từ đó, dấu vết xe ngựa ở ngoài cũng dần dần mất hẳn.

Mụ dầu lột hết trang sức, xếp nàng vào hàng ngũ con hầu. 

Thụy Vân vốn ẻo lả không đương nổi công việc tôi đòi, ngày càng thêm tiều tuỵ.

Hạ nghe nói, đi qua ghé vào, thấy bù đầu ở dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy chàng thì quay mặt vào tường mà tránh.

Hạ đem lòng thương xót, bèn nói với mụ, muốn chuộc nàng về làm vợ. 

Mụ bằng lòng. 

Hạ bán ruộng và dốc hết hành trang vốn liếng mua nàng đem về. 

Ðến nhà, nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là người sánh vai với chàng, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này. 

Hạ nói:

- Ở đời, cái đáng quí là tri kỷ. Lúc nàng đang thịnh, nàng còn biết đến tôi, lẽ nào vì nàng suy mà tôi lại quên nàng?

Rồi không chịu cưới ai nữa. 

Ai nghe nói việc này cũng cười cợt, nhưng với chàng thì mối tình càng thêm nồng thắm.

Ðược hơn một năm. 

Hạ ngẫu nhiên đến đất Tô, gặp chàng thư sinh họ Hòa, cùng trọ một chỗ. Bỗng dưng Hòa hỏi rằng:

- Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân gần đây ra sao?

Hạ đáp:

- Ðã lấy chồng rồi.

Hoà lại hỏi:- Lấy ai đấy?

Ðáp:

- Người đó cũng đại loại như tôi.

Hoà nói:

- Ðược như anh thì có thể nói là đúng người rồi đấy, không biết giá bao nhiêu?

Hạ nói:

- Mắc phải bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, chẳng thế, loại người chúng tôi sao có thể mua được người đẹp.

Hoà lại hỏi:

- Người đó quả thật có được như anh không?

Hạ thấy anh ta hỏi hơi lạ, nhân đó cũng căn vặn hỏi lại.

Hoà cười mà đáp rằng:- Thực ra không giấu nhau nữa. 

Năm trước tôi từng được chiêm ngưỡng danh hoa một lần, rất lấy làm tiếc rằng tài mạo tuyệt vời mà lênh đênh không vừa đôi phải lứa, cho nên đã dùng một thuật mọn làm giảm bớt hào quang, và giữ gìn lấy vẻ ngọc, để dành lại đó chờ tấm gương soi thật mặt của kẻ yêu tài.

Hạ vội hỏi:

- Anh đã chấm được thì cũng có thể chữa được chứ?

Hoà cười mà rằng:- Sao lại không được, nhưng mà cần vai chính thành tâm cầu xin thì mới được.

Hạ đứng dậy vái mà rằng:

- Người chồng của Thụy Vân tức là tôi đây!

Hoà mừng quá, nói:

- Trong thiên hạ, chỉ có người nhân tài mới thật đa tình, không vì chuyện xấu đẹp mà thay đổi ý nghĩ. 

Anh cho tôi theo anh về nhà, tôi sẽ tặng anh một người đẹp.

Bèn cùng nhau về. 

Ðến nơi, Hạ bảo dọn rượu, Hoà vội gạt đi mà rằng:

- Ðể tôi làm phép trước đã, thì người dọn cỗ mới vui lòng chứ!

Tức thì bảo bưng lên một thau nước, lấy ngón tay thư lên trên nước mà nói rằng:

- Rửa đi thì khỏi ngay! 

Nhưng phải đích thân ra tạ ơn người làm thuốc đấy!

Hạ cười, bưng thau đi vào, đứng đợi Thụy Vân tự rửa mặt trong thau, tay đưa đến đâu thì sạch đến đấy, diễm lệ chẳng khác gì năm xưa.

Vợ chồng cảm cái hậu đức của Hoà, cùng nhau ra ngoài tạ ơn, thì khách đã mất hút đâu rồi, tìm khắp nơi mà không được.Có lẽ là tiên chăng? 
(Nguyên tác: Bồ Tùng Linh - Dịch Cao Xuân Huy)
Theo vnthuquan.net

Giải trí cuối tuần: Đọc truyện - Dế chọi


                            Ảnh minh họa

Thời Tuyên Đức (1) trong cung rất chuộng chơi chọi dế, hàng năm bắt dân gian cung tiến. Trò đó không phải nảy sinh từ đất Thiểm Tây mà do viên quan huyện lệnh huyện Hoa Âm muốn lấy lòng quan trên đem tiến một con. 

Quan tỉnh thấy nó chọi hay quá đòi phải cung tiến thường xuyên. 

Quan huyện lại đòi lý trưởng phải cung cấp. 

Ngoài chợ bọn tay chơi tìm mua được con nào tốt, đem nhốt vào lồng nuôi, nâng giá lên thành hàng quý lạ. 

Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ cung tiến dế, sách nhiễu dân chúng. 

Mỗi đầu dế phải nộp, đủ làm khuynh gia bại sản mấy nhà. 

Huyện ấy, có người tên Thành Danh đã là một đồng sinh (2) nhưng không theo học tiếp nữa. Anh ta vốn người chất phác, ít nói, cho nên bọn hương chức quyền thế ép phải giữ chân chức dịch trong làng. 

Tuy nhiên người này đã trăm phương bách kế để từ chối nhưng vẫn không thoát. 

Mới chưa đầy một năm mà gia sản nhỏ mọn của anh ta cơ hồ đã kiệt. 

Gặp vụ nộp dế, Thành không dám bổ bán sách nhiễu dân mà nhà thì không còn gì để bù, bởi thế lo buồn quá chỉ muốn chết đi cho rảnh. 

Người vợ khuyên can: - Chết thì được việc gì, chi bằng tự tìm bắt lấy, muôn một may ra được con nào chăng. 

Thành cho là phải, từ đó cứ sáng đi tối về, tay xách ống tre , lồng tơ, đủ cách bới đất lật đá tìm hang, mọi nơi tường đổ, bờ hoang bãi cỏ. 

Cũng có lần moi được vài ba con, nhưng vừa yếu lại vừa bé, không đủ quy cách. 

Quan trên cứ hạn mà trách phạt, quá hơn chục ngày Thành phải chịu đòn trăm gậy, đôi mông máu me be bét mà chẳng có con dế nào để nộp. 

Về nhà anh ta lăn lộn, trăn trở trên giường, chỉ còn nghĩ đến chuyện tự tử mà thôi. Lúc ấy, trong thôn có cô đồng gù mới đến, có tài bói toán cầu thần. 

Vợ Thành chạy tiền đến bói. Gái tơ, nạ dòng kéo đến chật cổng ngõ. Trong nhà buồng kín che mành, cửa bày hương án. 

Nguời đến bói thắp hương sì sụp lễ. Cô đồng đứng bên hướng lên không trung khấn thay mồm mấp máy thì thầm không biết nói những gì. 

Mọi người xung quanh cung kính đứng nghe. Lát sau trong mành ném ra mảnh giấy ghi rõ những lời truyền phán chỉ bảo, không mảy sai lẫn lộn. 

Vợ Thành nộp tiền trước án rồi cũng thắp hương làm lễ như những người trước. 

Độ giập bã trầu thì mành động có mảnh giấy ném ra. 

Giở ra xem, không thấy chữ, chỉ có hình vẽ: ở giữa là đền gác như kiểu chùa Phật; đằng sau dưới ngọn núi nhỏ lổn nhổn những mô đất kỳ quái, những bụi gai tua tua, một chú dế “thanh ma” nằm phục, bên cạnh là con ếch trong tư thế định nhảy ra. 

Xem mà không hiểu ra sao, chỉ thấy qua chú dế dường như có bao hàm ẩn ý về việc mình cầu khẩn, cho nên vợ Thành bọc giấy vào người, đem về đưa chồng xem. 

Thành xem xong trăn trở tự nhủ: “Phải chăng bức vẽ này chỉ cho ta chỗ bắt dế?”. 

Ngắm kỹ hình vẽ thấy giống như Đại Phật Các ở mé đông thôn. Bèn gượng dậy, cầm theo bức vẽ, chống gậy lần ra mé sau chùa. 

Ở đó có một ngôi mộ cổ trên gò cây cỏ um tùm. 

Lần theo xung quanh mộ thấy đá lởm chởm rất giống hình vẽ. Thành vạch cây vén cỏ, căng mắt dỏng tai như đi tìm mũi kim hạt cải, nhưng không thấy dấu vết gì cả. 

Bỗng có một con ếch nhảy vọt ra, Thành kinh ngạc vội đuổi theo, ếch lẫn vào đám cỏ. Thành dõi theo hướng, lần tìm thấy một chú dế núp dưới gốc gai. 

Thành chộp vội, nhưng dế đã chui tọt vào trong hang. 

Lấy cỏ nhọn chọc, nó vẫn nằm lỳ trong ấy. Sau khi đem ống phun nước vào, bị sặc, một chú dế cực to khỏe mới thò ra. 

Tóm được chú ta, nhìn kỹ: mình to, đuôi dài, cổ xanh, cánh vàng. Thành vô cùng mừng rỡ liền nhốt vào lồng mang về. 

Cả nhà ăn mừng, cho rằng bắt được trân châu bảo ngọc cũng không bằng. 

Rồi thả vào bồn, nuôi nấng hàng ngày bằng thóc ngâm sữa, thịt cua luộc, chắm sóc chí chút từng li từng tí, đợi đến kỳ hạn nộp quan. 

Thành có đứa con trai lên chín, thấy bố đi vắng liền mở trộm bồn ra xem. 

Dế thừa cơ vọt ra. 

Thằng bé đuổi theo mãi vồ được vào tay thì dế đã gãy cẳng bẹp bụng, chết ngay tức khắc. Nó sợ quá chạy mách mẹ. 

Mẹ vừa nghe xong, mặt nhợt như chết rồi, quắt mắng ầm lên: 

- Thật là tiền oan nghiệp chuớng! Chết đến nơi rồi! Bố về sẽ cho mày biết! 

Thằng bé khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại mà lạnh toát xương sống, đi tìm con thì con đã biến đâu không biết. 

Mãi sau mới vớt được xác con dưới giếng. 

Chuyển giận thành thương, Thành vật ra kêu trời muốn chết. Nhà tranh bặt khói, vợ chồng im lặng nhìn nhau không còn gì nữa. 

Trời gần tối mới đem chiếu cỏ liệm thây con, ôm ấp vỗ về thì thấy con còn thoi thóp thở. Mừng quá! 

Nửa đêm con sống lại. Hai vợ chồng hơi yên tâm. Song đứa con vẫn cứ trơ ra như khúc gỗ, bằn bặt ngủ lịm. 

Thành nhìn cái lồng dế rỗng không, lại như muốn đứt hơi, tắc họng, không nghĩ gì đến con nữa. 

Suốt một đêm ròng không hề chợp mắt. 

Mặt trời mọc, Thành vẫn nằm dài lòng buồn rười rượi. 

Bỗng nghe bên ngoài có tiếng dế gáy, vội nhỏm dậy nhìn ra thì dế vẫn còn đó. 

Thành mừng quá vồ lấy. Kêu to một tiếng, dế nhảy bật đi. Tay Thành chộp được thì thấy dường có dường không. Mở ra, dế lại nhảy vọt mất. 

Thành đuổi theo đến góc tường, không thấy nó đâu. 

Hoảng hốt nhìn quanh bốn phía thấy nó đã nép trên vách. 

Nhưng con này vừa nhỏ vừa ngắn, đỏ đen nham nhở, không phải con trước. 

Thành cho là hạng bét không thèm để mắt mà cứ quanh quẩn đi tìm con trước. Bỗng con dế từ trên vách nhảy xuống, rơi tọt ngay vào tay áo Thành. 

Ngắm kỹ, đầu vuông đùi dài, dáng ve sầu, cánh hoa mai, có vẻ tốt. 

Thành hơi mừng giữ lấy định đem lên công đường nộp, song chỉ lo sợ không được vừa ý quan, mới nghĩ cách cho chọi thử xem sao. 

Một chàng trai tay chơi trong thôn nuôi được một chú dế nòi đặt tên là “Cua xọc xanh”, hàng ngày đem chọi với dế của đồng bọn lúc nào cũng thắng cả. 

Chàng ta muốn giữ để kiếm lời, ai trả giá cao mấy cũng chưa chịu bán. 

Nhân qua nhà thăm Thành, thấy dế Thành nuôi, chàng ta bịt miệng cười và đòi đưa dế mình, bỏ vào lồng để chọi thử. 

Nhìn thấy dế người vừa to vừa cao, Thành lại càng xấu hổ, không dám đưa dế mình ra. 

Chàng trai cố ép. Thành nghĩ: “Nuôi vật hèn kém cuối cùng cũng vô dụng, chi bằng đem chọi lấy một tiếng cười.” Thế là Thành đưa dế vào bồn đấu. 

Chú dế con nằm ẹp xuống không dám động đậy. Chàng trai cười ngất, cầm cái lông lợn chọc vào râu, nó vẫn nằm im. 

Chàng trai lại cười, lại chọc. 

Dế con nổi giận, xông thẳng ra, phấn chấn cất tiếng gáy te te....

Rồi vểnh râu, cong đuôi nhảy xổ vào cắn cổ địch thủ. 

Chàng trai hốt hoảng xin ngưng chọi. 

Dế con dõng dạc cất tiếng gáy như báo cho chủ biết mình vừa thắng cuộc. 

Thành chứng kiến cảnh ấy, chàng vui mừng, sung sướng vô cùng. 

Đang khi cùng nhau ngắm nghía dế con, thì một con gà sán lại gần định mổ con dế. Thành hoảng hốt, đứng dậy thét đuổi. May mà gà mổ khôngt trúng. 

Dế co càng nhảy một phát đến hơn một thước. Gà đuổi sấn theo, dế đã nằm dưới móng gà. Thành thảng thốt không biết làm thế nào để cứu con dế yêu quý, chỉ còn biết đứng dậm chân thất sắc. 

Nhưng sao gà cứ vươn cổ, sã cánh? 

Nhìn kỹ thì dế đã bám trên mào gà cắn chặt lấy không buông. Thành vừa kinh ngạc vừa mưng, vội bắt lấy dế bỏ vào lồng. 

Hôm sau, Thành đem dâng quan huyện. 

Quan huyện thấy dế quát ầm lên. 

Thành thuật lại chuyện lạ về con dế ấy, nhưng quan không tin. 

Đem chọi với các con khác thử, dế Thành đều thắng. 

Đem thử với gà quả như lời Thành nói. 

Quan trên thưởng cho Thành và hiến dế lên tỉnh. 

Quan tỉnh vui lòng lắm liền bỏ dế vào lồng vàng tiến vua, lại dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. 

Đã vào cung rồi, dế còn phải tỷ thí với khắp các loại dế kỳ hình dị dạng của cả thiên hạ dâng tiến như:

Dế bướm, dế bọ ngựa, dế dầu, dế “trán tơ xanh”... con nào cũng chịu thua cả. 

Còn điều kỳ lạ hơn nữa, ở trong cung con dế của Thành mỗi khi nghe tiếng đàn cầm, đàn sắt lại nhảy múa theo các tiết điệu. 

Hoàng thượng hết sức đẹp lòng, rộng ơn ban thưởng, xuống chiếu cấp cho quan tỉnh ngựa hay, vải quý. 

Quan tỉnh không quên nguồn gốc dế nên ít lâu sau tiến cử quan huyện là người “tài năng ưu việt” có thể thăng cấp. 

Quan huyện sướng quá cho Thành được miễn sai dịch; lại dặn học quan cho Thành thi lấy học vị tú tài. 

Còn con Thành hơn năm sau tinh thần trở lại như cũ và kể rằng: Mình đã hóa thành dế, lanh lẹ, chọi giỏi, nay mới thực sống lại. 

Quan tỉnh biết rõ chuyện ấy, lại hậu thưởng cho Thành. 

Chỉ mấy năm thôi, Thành đã có ruộng đồng trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê đầy đàn. Ra khỏi nhà thì áo cừu, ngựa xe vượt cả các bậc quyền thế. (Nguyên tác: Bồ Tùng Linh - Nguyễn văn Huyền dịch)
Theo vn.thuvienquan.net 
............................
  (1) Tuyên Đức: niên hiệu thời vua Tuyên Tông nhà Minh khoảng 1426- 1435 (2) Theo chế độ khoa cử lúc ấy ai có học đi thi nhưng chưa thi đỗ tú tài thì bất kể tuổi tác đều gọi là đồng sinh. (3) câu này do điển: Thời Hán, Hoài Nam vương Lưu Yên tu luyện đắc đạo bay lên trời. Lũ gà chó trong nhà ăn phải thuốc luyện còn dư cũng đều trở thành tiên cả.
 
Copyright © 2013 Món ăn tinh thần | Powered by Blogger