Trước nhà thờ Saint Sébalt, nơi góc
đường Des Trabans là một quán nhỏ, vừa hẹp vừa cao, cửa kính bụi bậm, trên nóc
có dựng bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng thạch cao.
Đó là nơi tôi trải qua những ngày buồn thảm nhất đời.
Tôi đến thành phố Nureemberg đê học hội họa từ các họa sư tên tuổi ở Đức, nhưng
vì thiếu tiền nên đành phải vẽ ảnh, những ảnh xoàng xĩnh như các mụ to béo lắm
lời, con mèo ngồi trên đầu gối, những ông xã trưởng đội mũ ba góc,những ông nhà
giàu, đầu chụp tóc giả…
Hết vẽ ảnh, tôi vẽ những bản phác
họa (Croquis) và sau cùng vẽ hình bóng (Silhouettes).
Với tôi, không có gì thê thảm cho bằng luôn luôn bị viên quản lý khách sạn hạch
sách. Sáng nào ông ta cũng mím môi giọng ồn ào, vẻ xấc láo nạt nộ: “Chừng nào
ông mới chịu trả tiền cho tôi? Ông có biết tiền phòng của ông lên tới bao nhiêu
rồi không? Hai trăm đồng “florin” và mười đồng “kreutzer”. Không có bao nhiêu
phải không?”.
Những ai chưa nghe giọng xấc láo của
tên quản lý khách sạn này không thê hiêu được nỗi khổ của tôi trong lúc bấy
giờ. Tình yêu nghệ thuật, óc tưởng tượng, sự hăng hái đi tìm cái đẹp của tôi
hoàn toàn khô héo. Tôi trở nên vụng về, nhút nhát. Bao nhiêu nghị lực đều biến
cũng như lòng tự trọng… Và thấy ông xã trưởng từ xa là tôi đã cúi đầu chào cẩn
thận.
Một đêm, không một xu dính túi, quá
lo ngại, sợ bị viên quản lý dê sợ kia cho vào tù, tôi nhất định tự tử bằng cách
cắt họng. Với ý nghĩ đó, tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn ngó ra cửa sổ,
triền miên nghĩ ngợi đến trăm ngàn ý nghĩ về triết lý.
Tôi tự hỏi: “Con người
là gì? Một con thú ăn tạp! Hai hàm răng có các loại răng chó, răng cửa, răng
hàm chứng minh điều đó. Răng chó đê ăn thịt, răng cửa đê ăn trái cây và răng
hàm đê nghiền. Nhưng khi không còn gì đê nghiền thì con người là một thứ vô
nghĩa trong vũ trụ, một điều thừa, một bánh xe thứ năm…”.
Đó là những cảm nghĩ của tôi. Tôi không dám mở con dao cạo ra, sợ rằng tôi bỗng
nhiên trở nên can đảm mà tự tử.
Sau những lý luận như thế, tôi thổi ngọn đèn sáp, hoãn lại mọi việc vào ngày
mai.
Tên quản lý khách sạn đã làm cho tôi trở nên ngu ngốc hoàn toàn.
Tôi không thấy gì khác hơn là những hình bóng và điều mong muốn duy nhất của
tôi là có tiền đê ném vào mặt hắn mỗi khi hắn ta đến quấy rầy tôi.
Nhưng đêm đó, có một cuộc cách mạng kỳ lạ trong đầu óc tôi. Tôi thức dậy vào
lúc một giờ khuya, vẽ nhanh lên giấy một bức phác họa theo loại Hòa Lan, tức là
loại kỳ quái, không có một chút liên hệ gì tới các quan niệm về hội họa thông
thường của tôi.
Các bạn hình dung, bức phác họa là một khoảng sáng tối âm u, nằm giữa những bức
tường cao, loang lở. Những bức tường dầy đó có những móc sắt nhọn hoắt đóng ở
trên cao vào khoảng hai ba thước. Người ta đoán ngay từ đầu khung cảnh đó là
một lò sát sinh.
Bên trại có một hàng rào mắt cáo.
Bạn thấy một con bò mổ banh ra, treo lên trần bằng những cái móc to tướng.
Những vũng máu chảy trên nền gạch và dồn xuống một đường mương đầy rác đến dị
kỳ.
Ánh sáng chiếu từ trên, giữa các ống khói. Bóng các mái nhà kế cận chồng chất
lên nhau.
Bên trong là một trại… Dưới trại là một đống củi. Trên đống củi có một cái
thang, vài bó rơm, một đống dây, một chuồng gà và một chuồng thỏ phế thải.
Làm sao các chi tiết ô hợp đó lại chạy vào trí tưởng tượng của tôi? Tôi cũng
không biết, không thấy một cảnh nào như vậy đê nhớ lại rồi vẽ ra.
Ấy vậy mà mỗi một nét bút chỉ là một nét vẽ chững chạc được nghiên cứu cẩn
thận. Không thiếu một cái gì hết!
Nhưng bên mặt, còn một góc bỏ trắng. Tôi không biết vẽ gì lên đó. Kìa, có một
vật gì thấp thoáng cử động. Bỗng nhiên tôi thấy một bàn chân, một bàn chân lật
ngược, tách khỏi mặt đất. Mặc dầu vị trí đó không thê có được tôi vẫn theo sáng
kiến đó, không hề hiêu rõ mình sẽ vẽ gì đây. Bàn chân đó dính vào ống quyên… và
trên ống quyên có một chéo áo… Liền sau đó, một mụ già, xanh xao, tiều tụy, tóc
rối bời té sấp trên bờ giếng trong khi chống cự với một nắm tay đang siết cổ
mụ…
Thì ra tôi vẽ một bức tranh giết người. Ngọn bút rơi khỏi bàn tay tôi.
Mụ già trong tư thế chống cự tận
lực, nằm vắt lên thành giếng, mặt nhăn nhó vì kinh hãi, hay tay bám chặt lấy
cánh tay của kẻ sát nhân, mụ ta làm tôi hoảng sợ…
Tôi không dám nhìn mụ. Nhưng về phần tên sát nhân thì tôi không thấy, trừ cánh
tay. Tôi không thê kết thúc được bức tranh.
Tôi tự nhủ: “Mệt rồi. Chỉ còn có nét mặt của tên sát nhân nữa mà thôi. Ngày mai
mình sẽ vẽ nốt. Dê mà!”.
Tôi nằm xuống giường, hãy còn kinh sợ trước những gì vừa thấy qua nét vẽ của
chính mình. Năm phút sau, tôi ngủ như chết.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy khi trời hãy còn mờ tối.
Vừa mặc quần áo xong và sắp sửa tiếp tục bức tranh bỏ dở thì có hai tiếng gõ
cửa.
Tôi lên tiếng:
- Cứ vào!
Cánh cửa mở. Một người đã già, cao, ốm, mặc toàn màu đen bước vào thềm. Hai mắt
ông gần nhau quá, mũi ông quặp xuống như mũi két, trán ông rộng, xương xẩu.
Gương mặt ông có vẻ nghiêm khắc, ông chào tôi, hỏi thật nghiêm:
- Ông là họa sĩ Christian Vénius?
- Chính tôi thưa ông.
Ông ta gật đầu một lần nữa, tự giới
thiệu:
- Tôi là Nam tước Frederic Van Spreckdal!
Sự xuất hiện của ông Van Spreckdal, chánh án tòa đại hình trước căn gác tối tăm
của một họa sĩ vô danh khiến tôi thấy mất bình tĩnh. Tôi nhìn bàn ghế tồi tàn,
sàn gác bụi bậm, xấu hổ trước cảnh nghèo của mình. Nhưng ông Van Spreckdal
không chú ý đến những chi tiết đó. Ông ngồi trước bàn nhỏ của tôi nói:
- Họa sĩ, tôi đến đây…
Nhưng, cùng lúc đó, hai mắt ông dừng lại trên bức họa chưa hoàn thành… ông
không nói hết câu. Tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn và sự chiếu cố bất ngờ
của nhân vật này dành cho một trong các tác phẩm của tôi khiến tim tôi đập mạnh
vì mối lo sợ khó nói.
Độ một phút, Van Spreckdal ngước đầu lên nhìn tôi thật chăm chú.
- Ông là tác giả bức họa kia?
- Dạ phải.
- Giá bức họa đó bao nhiêu?
- Tôi không bán các bức phác họa. Đó chỉ là một dự án.
Ông khách kêu lên một tiếng “A!” khi
đỡ tờ giấy lên với mấy đầu ngón tay bằng vàng, ông lấy một kính phóng đại trong
áo “gi lê” ra, bắt đầu nghiên cứu bức họa một cách trầm lặng.
Ánh nắng mặt trời chiếu xiên xiên qua gác. Van Spreckdal không nói một lời nào,
sống mũi ông quằm xuống, đôi mày ông cau lại.
Không khí hoàn toàn im lặng, tôi nghe rõ tiếng vo ve của một con muỗi mắc trong
lưới nhện. Sau cùng, không nhìn tôi, ông hỏi:
- Khuôn khổ bức tranh này như thế nào?
- Bề ngang ba bộ, bề dài bốn bộ.
- Giá tiền?
- Năm mươi đồng “ducat”.
Van Spreckdal đặt bức ảnh xuống, lấy trong túi chiếc ví dày màu xanh lá cây,
giống như một quả lê. Ông trút các đồng tiền vàng ra:
- Đây, năm mươi “ducát”.
Nam tước đứng lên chào tôi. Tôi nghe
tiếng chiếc gậy cán ngà của ông nện trên các bậc thang gác. Khi ông ta xuống
đến tầng dưới tôi mới hoàn hồn và sực nhớ chưa cảm ơn ông ta. Tôi chạy nhanh
xuống năm tầng lầu. Nhưng ra tới đường, nhìn hai bên, con đường vắng tanh. Tôi
hổn hên” “Lạ quá!”, rồi hổn hên leo trở lên gác.
Sự xuất hiện đột ngột của Van Spreckdai khiến tôi ngây ngất bàng hoàng. Ngắm
chồng “ducat” ngời sáng dưới ánh nắng, tôi ngẫm nghĩ:
“Hôm nay, mình tính cắt
cổ tự tử vì mấy đồng “florin” không đáng, bây giờ thì cả một sản nghiệp từ trên
trời rơi xuống. Mình không mở con dao cạo ra là phải! Và từ đây về sau, nếu có
ý nghĩ tự tử nữa thì mình nên hoãn lại ngày hôm sau. Sau những cảm nghĩ đó tôi
ngồi lại đê tiếp tục vẽ nốt bức tranh.
Chỉ cần bốn nét bút là xong.
Nhưng tôi
thất vọng não nề. Bốn nét bút đó tôi không vẽ được. Tôi mất tong cảm hứng. Nhân
vật bí hiêm kia, tôi không thê nào hình dung ra mặt mũi. Tôi cố suy nghĩ, cố
phác họa, nhưng không vẽ ra hồn. Tôi đổ mồ hôi có giọt.
Đúng lúc đó, tên quản lý bước vào
phòng tôi, không gõ cửa theo thói quen. Hắn nhìn chồng tiền vàng, kêu lên:
- A ha! Tôi bắt được quả tang ông có nhiều tiền vàng như thế này, thế mà ông
bảo là không có tiền!
Và mấy ngón tay nhọn hoắt của hắn quờ quạng về phía đống tiền vàng trên bàn.
Tôi ngẩn ngơ vài giây. Rồi chợt nhớ tên quản lý luôn hoạnh họe bấy lâu nay, tôi
nhảy xổ tới thộp cổ hắn tống ra khỏi phòng, rồi sập cửa, làm hắn dập cả mũi.
Tất cả những việc đó xảy ra thật nhanh. Tôi nghe viên quản lý kêu ầm lên ở bên
ngoài:
- Trả tiền đây! Đồ ăn cắp!
Những người mướn phòng xung quanh đổ ra ngoài. Tiếng họ lao xao:
- Có việc gì vậy?
Tôi mở cửa thật bất ngờ, đạp mạnh vào mông tên quản lý khiến hắn lăn ùng ục
xuống lầu, có đến vài mươi bậc thang.
Tôi hét lên:
- Việc gì hả? Tôi tống cổ thằng chó đó xuống lầu. Chỉ có vậy thôi!
Xong, tôi khóa cửa lại trong tiếng cười của các bạn phòng bên.
Tôi rất hài lòng về chuyện vừa làm, xoa tay thích thú.
Chuyện xảy ra khiến tôi hứng chí.
Tôi ngồi xuống toan tiếp tục vẽ thì có tiếng động kỳ lạ. Đó là tiếng báng súng
đặt xuống vỉa hè. Tôi nhìn qua cửa sổ, thấy ba cảnh sát, súng dựng dưới chân,
đứng canh trước cửa nhà. Tôi lo sợ hỏi thầm: “Thằng quản lý gãy tay, lọi cẳng
chăng?”.
Các bạn có thấy điều kỳ quái trong đầu óc con người chưa. Ngày hôm qua tôi tính
cắt cổ tự tử, mà bây giờ lại run rẩy khi nghĩ tới cảnh lính bắt về tội đạp tên
quản lý té lầu!
Có tiếng ồn ào trên thang lầu, tiếng chân người, tiếng súng khua, tiếng những
lệnh truyền cộc lốc.
Bỗng người ta cố mở cửa phòng tôi. Cửa đã khóa. Có tiếng hô to:
- Mở cửa! Cho lính vào!
Tôi đứng lên, run rẩy, hai chân lảo đảo.
- Mở cửa!
Tôi có ý nghĩ muốn trèo lên mái nhà.
Nhưng vừa ló đầu qua khung cửa sổ nhỏ bé, tôi giật thụt lùi, đầu óc choáng
váng. Tôi thấy các cửa sổ ở tầng dưới với những cửa kính, những chậu hoa… dưới
nữa là bao lơn, sau cùng là trụ đèn đường, bảng hiệu “Tônnelet Rouge” và sau
hết là ba lưỡi lê sáng chóe đang chờ tôi rơi xuống đê đâm suốt từ lòng bàn chân
đến gáy.
Trên mái nhà đối diện có con mèo to, màu hung đỏ, núp sau ống khói rình một đàn
chim sẻ đang kêu chíu chít trên màng xối.
Tôi không thê hình dung mắt con người có thê thấy thật rõ và nhanh đến vậy
trong khi lo sợ.
Bên ngoài người ta ra lệnh đến lần thứ ba:
- Mở cửa! Hay đê người ta phá cửa đây!
Thấy trốn không được, tôi lảo đảo đến cửa… vặn khóa.
Vụt một cái, hai cánh tay chụp lấy cổ tay tôi. Một người mập lùn, miệng đầy hơi
rượu nói:
- Đây rồi!
Ông ta mặc áo xanh ve chai, gài nút
tới cổ, đê râu rậm, đeo đầy cà-rá và tên là Passauf. Hắn là cảnh sát trưởng.
Bên ngoài có đến năm tên lính bồng súng nhìn tôi chăm chỉ.
Tôi hỏi Passauf:
- Ông muốn gì?
Hắn quát:
- Xuống lầu!
Và ra lệnh cho một tên lính nắm tay tôi lôi đi.
Mấy tên kia lập tức xông đến lục tung căn phòng nhỏ bé của tôi.
Tôi bước xuống lầu, dựa vào tên lính, như một kẻ ho lao đến thời kỳ thứ ba, tóc
tai rối nùi, mỗi bước mỗi vấp.
- Tôi bắt anh !
Người ta vứt tôi lên xe ngựa, kẹp tôi giữa hai tên lính vạm vỡ. Khi chiếc xe
chạy, tôi còn nghe có tiếng bước chân chạy theo của trẻ nhỏ.
Tôi hỏi một trong hai người lính:
- Tôi bị bắt về tội gì?
Tên này nhìn tên lính kia, mỉm cười một cách khó hiêu, nói:
- Này Hana, nó hỏi nó bị bắt về tội gì kìa?
Nụ cười đó khiến tôi sợ tái người.
Không lâu, một bóng mát bao trùm lên chiếc xe. Tiếng chân ngựa vang dưới nền
gạch khô khốc. Chừng như tôi đã được đưa tới khám đường. Đối với tôi, bây giờ
cái gì cũng trở lên đen tối.
Từ móng vuốt của tên quản lý, tôi rơi vào nơi ngục tối, nơi người vô thì nhiều
mà người ra thì ít. Người ta giam tôi một cách thản nhiên như cất một đôi vớ
trong tủ, rồi mặc kệ đó, nghĩ đến những chuyện khác.
Tôi ngồi bất động đến mười phút, nghĩ mông lung:
Thằng cha quản lý đã hét to: “Nó giết tôi” khi bị tôi đạp té xuống thang lầu.
Nhưng hắn không nói rõ là ai giết hắn. Mình sẽ khai thủ phạm là ông già bán
kính ở kế bên. Lão ta sẽ bị treo cổ thay cho mình.
Ý nghĩ đó làm tôi bớt lo.
Tôi nhìn xung quanh phòng giam. Phòng mới quét vôi,
không có một hình vẽ nào trên tường trừ một hình cái giá treo cổ mà kẻ vào đây
trước tôi đã vẽ. Ánh sáng bên ngoài chiếu vào qua một lỗ tròn trên cao, cách
mặt đất chừng ba thước. Đồ đạc trong phòng chỉ gồm một cái ổ rơm và một cái
chậu.
Tôi ngồi lên ổ rơm, hai tay bó gối,
buồn thảm không tả nổi. Tôi nghĩ là tên quản lý trước khi chết đã tố cáo tôi.
Tự nhiên tôi thấy nhột ở chân như có kiến bò và tôi ngẩng cổ lên, húng hắng ho
như có sợi dây siết mạnh ở cổ.
Ngay lúc đó tên cai ngục mở cửa bảo tôi đi theo hắn. Tôi rùng mình vì lúc nào
hắn cũng có hai tên đồ tê vạm vỡ theo sau. Chúng tôi đi qua mấy dãy hành lang
dài. Tôi thấy sau lưới sắt tên Jic Jack sắp sửa bị hành quyết vào sáng hôm sau.
Hắn mặc áo bó sát tay chào và hát lên với giọng khàn khàn. Khi thấy tôi hắn kêu
lên:
- Chào người anh em! Tôi sẽ dành cho người anh em một chỗ ở phía bên mặt.
Hai tên lính và viên cai ngục nhìn nhau cười trong khi tôi nổi da gà.
Viên cai ngục đẩy tôi vào một gian phòng cao, thật tối, có ghế sắp theo hình
bán nguyệt. Phòng vắng vẻ, có hai cửa sổ cao đóng lưới sắt kín mít và pho tượng
chúa bằng gỗ nâu, hai tay dang ra, đầu ngả xuống vai. Cảnh tượng đó khiến tôi
hoang mang cực độ. Tất cả ý nghĩ vu khống trước đó bỗng dưng biến mất. Đôi môi
tôi mấp máy cầu nguyện.
Đã từ lâu tôi không cầu nguyện, nhưng tai biến luôn luôn khiến con người khuất
phục trước đấng vô hình.
Trước mắt tôi, trên ghế cao là hai nhân vật ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Dù
vậy tôi cũng nhận ra Nam tước Van Spreckdal nhờ cái bóng ông in trên cửa kính.
Nhân vật thứ hai mập, má đầy thịt, hai bàn tay ngắn. Hắn cũng mặc áo thẩm phán
như ông Van Spreckdal. Người phía dưới là lục sự Conrad. Hắn đang cho cán viết
vào đầu lỗ tai. Khi tôi đến hắn dừng tay lại, nhìn tôi một cách tò mò.
Người ta bảo tôi ngồi xuống. Van
Spreckdal cao giọng hỏi:
- Christian Vénius, làm sao anh có bức ảnh này?
Ông ta đưa lên bức tranh tôi vẽ chưa xong. Người ta trao bức tranh đó cho tôi.
Sau khi xem, tôi đáp:
- Tôi là tác giả.
Im lặng khá lâu, rồi lục sự Conrad ghi lời nói của tôi. Tôi nghe ngòi bút của
ông ta cào trên giấy và tôi nghĩ: “Câu hỏi đó có nghĩa gì? Nó có liên quan gì
đến việc tôi đập thằng cha quản lý đâu!”
Van Spreckdal lại hỏi:
- Anh là tác giả, chủ đề của bức tranh là gì?
- Đó là bức tranh tưởng tượng.
- Anh có thấy các chi tiết này ở đâu không?
- Thưa không. Tất cả các chi tiết đều do tôi tưởng tượng.
Ông chánh án nói với giọng nghiêm khắc:
- Bị can Christian! Tôi yêu cầu anh nêu suy nghĩ cẩn thận. Đừng có nói dối!
Đỏ mặt, và với giọng bất bình tôi kêu to:
- Tôi nói sự thật!
Van Spreckdal nói:
- Lục sự ghi vào biên bản.
Ngòi bút lại chạy rần rật trên giấy.
Ông chánh án lại hỏi:
- Còn người đàn bà này. Người đàn bà mà người ta giết bên miệng giếng, anh cũng
tưởng tượng ra nốt?
- Đúng vậy!
- Anh không hề nhìn thấy bà ta?
- Không hề!
Van Spreckdal đứng lên, bực mình. Nhưng ông ta ngồi xuống tham khảo ý kiến đồng
nghiệp.
Hai bóng đen thẩm phán nổi bật lên trên nền sáng của cửa sổ, và ba người đứng
sau lưng tôi. Không khí trong phòng im lặng đến ngột ngạt… tất cả đều làm cho
tôi hoang mang lo sợ đến bải hoải. Tôi nghĩ thầm: “Họ muốn gì ở mình?
Bỗng Van Spreckdal nói với ba người lính:
- Đưa hắn lên xe. Chúng ta tới đường Metzrstrasse.
Rồi ông nói với tôi:
- Christian Vénius. Anh đang ở trong tình thế ngặt nghèo. Nếu anh thấy công lý
của loài người cứng rắn thì anh chỉ còn chờ sự tha thứ của Chúa. Anh sẽ xứng
đáng với tình thương của Chúa nếu anh thú tội.
Lời nói đó như búa bổ vào đầu tôi. Tôi ngã người ra sau, đưa tay lên trời kêu
to:
- Trời ơi! Thật là một cơn ác mộng!
Rồi tôi ngất xỉu.
Khi tôi tỉnh lại, chiếc xe đang chầm chậm trên đường. Phía trước có một chiếc
xe khác. Hai tên đồ tê vạm vỡ vẫn luôn kè kè bên tôi. Một tên mời bạn hút
thuốc. Tôi đưa tay về phía bao thuốc, hắn vội vàng giựt tay lại, cho vội bao
thuốc vào túi.
Mặt tôi đỏ lên vì xấu hổ. Tôi quay đầu vào vai che giấu cơn xúc động.
Bỗng tên lính có bao thuốc nói:
- Nếu anh nhìn ra ngoài chúng tôi bắt buộc phải còng tay anh lại.
Tôi nghĩ thầm: “Đồ chó! Quỷ sao không vật mày chết cho rồi!”.
Chiếc xe dừng lại. Một tên bước xuống. Tên còn lại nắm cổ tôi, khi thấy tên kia
đã sẵn sàng đê đón tôi, hắn đẩy tôi xuống xe một cách tàn nhẫn.
Tất cả những sự
thận trọng đó cho thấy con người tôi đích thị là một kẻ bất lương. Nhưng tôi
vẫn chưa hiêu rõ lời buộc tội từ phía hai ông thẩm phán.
Bỗng một cảnh tượng ghê gớm mở mắt tôi ra, đẩy tôi vào tận cùng tuyệt vọng.
Người ta đẩy tôi bước vào một con đường thấp, lót gạch lồi lõm, tường rỉ nước
vàng, mùi hôi thối xộc vào mũi khiến tôi choáng váng.
Tôi mò mẫm đi giữa bóng tối, phía
sau có hai tên lính vạm vỡ áp giải.
Đằng xa thấp thoáng một cái sân rộng. Càng đi tới gần tôi càng kinh sợ. Không
phải một sự lo sợ thông thường, mà đó là một sự khiếp đảm ghê gớm, giống như
một cơn ác mộng. Tôi chỉ muốn lùi lại, chứ không thê bước được.
Một tên lính đẩy mạnh vai tôi, ra lệnh:
- Bước tới chứ!
Đến đầu hành lang, tôi thấy trước mắt cái cảnh mà tôi vừa vẽ trong đêm qua.
Đúng là cái sân ở giữa những bức tưòng dày, có những móc sắt, những đống sắt
vụn, chuồng gà, chuồng thỏ… không có một chi tiết nhỏ nào bị bỏ quên. Tôi như
bị sét đánh ngang tai trước hiện tượng kỳ lạ đó. Hai ông thẩm phán đứng bên
cạnh miệng giếng. Dưới chân họ nằm sóng sượt một mụ già. Mụ nằm dưới tóc tai
rối bời, mặt tái ngắt, hai mắt mở trừng trừng, lưỡi thè giữa hai hàm răng. Thật
là một cảnh tượng kinh tởm.
Van Spreckdal nói với giọng trịnh trọng:
- Sao, anh nghĩ gì?
- Anh có nhận đã ném mụ già này? Mụ Thérésa Beker xuống giếng sau khi bóp cổ
giựt tiền của mụ ta?
Tôi gào to lên:
- Không! Tôi không biết mụ già này. Tôi không hề nhìn thấy mụ ta. Xin Chúa
chứng cho tôi!
Van Spreckdal gắt:
- Thôi, bao nhiêu đó đủ rồi!
Không nói thêm một lời, ông cùng bạn đồng nghiệp bước nhanh ra.
Hai tên lính nghĩ là họ có bổn phận còng tay tôi lại. Họ đưa tôi trở về khám.
Trong cơn bàng hoàng, lúc đó tôi hoàn toàn hoang mang, không biết có đúng là
mình đã giết mụ già kia hay không.
Đối với những tên lính gác, tôi rõ ràng đã là một tên tử tội.
Tôi không kê ra đây cơn xúc động của tôi trong đêm đầu tiên nằm khám. Tôi ngồi
thừ trên ổ rơm, nhìn qua khung cửa sổ nhỏ, thấy đoạn đầu đài xa xa. Tôi nghe tiếng
người gác đêm kêu to lên trong thanh vắng: “Hỡi dân chúng Nuremberg. Hãy yên
giấc. Một giờ!… Hai giờ!… Ba giờ!…”.
Tôi thắc mắc, nghĩ ngợi nhiều. Người
ta bảo thà bị xử giảo vô tội còn hơn là có tội. Đúng! Nhưng đó là về phần hồn.
Còn về phần xác thì chết vô tội hay có tội cũng y như nhau. Trái lại, phần xác
vẫy vùng, tự giải thoát khi biết vai trò của mình đã chấm dứt bằng sợi dây thắt
cổ.
Đó là những cảm nghĩ buồn thảm của tôi trong đêm ghê gớm ấy.
Ngày dần dần sáng, thoạt tiên còn mờ mờ rồi từ từ sáng tỏ. Bên ngoài, đường phố
nhộn nhịp. Ngày hôm ấy nhằm ngày thứ sáu, ngày nhóm chợ. Tôi nghe rõ mồn một
tiếng cọc cạch của xe bò chở rau cải, gà vịt. Tiếng gà kêu trong chuồng, tiếng
những người nông dân trò chuyện với nhau khiến lòng tôi lâng lâng.
Khu chợ trước mặt khám đã mở cửa. Người ta chắc đang sửa soạn chỗ ngồi. Khi
ngày sáng rực, tiếng cười nói của dân chúng vang lên. Những người đi chợ lui
tới, bàn cãi, mặc cả giúp tôi đoán bây giờ vào khoảng tám giờ sáng.
Với ánh sáng, tôi yên tâm hơn. Những ý nghĩ đen tối trong đêm biến mất. Tôi cảm
thấy thèm thấy những gì đang xảy ra bên ngoài.
Những người tù trước tôi đã đục những lỗ hổng trên tường đê leo lên khung cửa
sổ cho dê. Tôi leo lên đó, đút đầu qua cái lỗ tròn nhìn ra ngoài. Tôi thấy đám
đông, sự sống. Tự nhiên tôi chảy nước mắt. Tôi không nghĩ tới tự vẫn nữa. Tôi
cần sống, cần thở. Đó thật là một điều phi thường. Tôi lầm bầm: “Được sống là
hạnh phúc. Dù người ta bắt mình kéo xe hay xiềng chân vào sắt cũng mặc, miên
sống được là được rồi!”.
Tôi lại nhìn sang chợ, nhìn những mụ
già đang ngồi sau những thúng rau, giỏ gà… rổ trứng. Các người hàng thịt đang
chặt thịt trên thớt. Mấy anh nông dân đầu đội nón nỉ rộng vành, chống gậy, chắp
tay sau lưng hút thuốc.
Tiếng động của đám đông, sinh hoạt náo nhiệt của chợ giúp tâm trí tôi biết suy
nghĩ và trong hoàn cảnh buồn thảm hiện tại tôi vẫn thấy sung sướng được còn
sống trong thế giới loài người.
Khi tôi nhìn ra ngoài như vậy, có một người đi ngang qua. Hẳn là một tên đồ tê,
đang nghiêng lưng vác một phần con bò trên vai. Hai cánh tay trần, khuỷu tay
đưa lên trên, đầu cúi xuống. Tóc bay phất phới che kín cả mặt. Dù vậy, vừa thấy
hắn ta là tôi đã giựt nảy mình.
Tôi nói thành tiếng:
- Chính hắn!
Tất cả máu trong người tôi chạy dồn về tim. Tôi leo xuống, toàn thân run rẩy
đến cả đầu móng tay, tái xanh hết cả mặt mày, lẩm bẩm:
- Chính hắn!
Trong khi hắn tự do phây phây thì mình sắp chết thay cho hắn!
Chúa ơi! Bây giờ tôi phải làm gì? Phải làm gì?
Một ý nghĩ đột ngột, một sáng kiến từ trên cao lóe lên trong trí tôi. Tôi cho
tay vào túi áo… hộp bút chì hãy còn trong đó. Tôi liền chạy ngay lại bức tường
dày, vẽ lại khung cảnh xảy ra vụ ám sát với một hứng thú lạ thường, không còn
có sự mơ hồ, dọ dẫm. Tôi biết kẻ sát nhân. Tôi trông thấy hắn dường như hắn
đang làm mẫu trước mắt tôi.
Vào khoảng mười giờ, viên cai ngục bước vào khám giam. Nét mặt chim cú thường
ngày của hắn nhường chỗ cho sự thích thú.
Bước trên thềm hắn hỏi:
- Có thê như thế chăng?
Tôi vẫn tiếp tục ngồi vẽ với tất cả sự phấn chấn tột cùng.
- Đi gọi các ông thẩm phán đến đây giùm tôi!
Tên cai ngục ngần ngừ:
- Các ông ấy đang chờ nơi phòng biện lý.
Tôi vẫn chăm chú vẽ nhân vật kỳ lạ trong bức tranh nói:
- Tôi muốn tiết lộ nhiều điều mới lạ với các ông thẩm phán.
Nhân vật tôi vẽ như sống thật. Bộ mặt hắn rất đáng sợ.
Tên cai ngục bước ra ngoài. Vài phút sau hai vị thẩm phán tới. Họ đứng nhìn bức
tranh, kinh ngạc đến cực độ.
Tôi đưa cánh tay ra, cả người run rẩy, nói:
- Đây là thủ phạm!
Sau khi im lặng một lúc, Van Spreckdal hỏi:
- Tên hắn?
- Tôi không biết. Nhưng hắn hiện ở trong chợ, đang chặt thịt ở thớt thứ ba, bên
trái nếu đi từ con đường Trabans vào chợ.
Van Spreckdal quay lại ông bạn đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao?
Ông thẩm phán kia trịnh trọng bảo:
- Cho người đưa hắn tới đây.
Vài tên lính đứng ngoài hành lang
thi hành lệnh đó. Các thẩm phán vẫn đứng nhìn bức tranh của tôi. Còn tôi, tôi
ngồi vật xuống ổ rơm, đầu gục lên gối mệt nhoài như chết.
Không bao lâu có tiếng chân vang lên bên ngoài. Những ai chưa hề chờ giải
thoát, chưa đếm từng phút dài như những thế kỷ, những ai chưa biết đến xúc động
cực mạnh của sự chờ đợi, của sự kinh hãi, của sự hy vọng, của hoang mang… những
kẻ đó không thê thông cảm được rúng động của tôi lúc bấy giờ.
Tôi nghe cả tiếng
chân của tên sát nhân bước giữa đám lính. Tôi nghe họ tiến tới gần. Ngay cả hai
vị thẩm phán cũng lộ vẻ xúc động. Tôi ngước đầu lên, tim se lại như có một bàn
tay sắt đang siết chặt. Tôi nhìn chăm chú vào cánh cửa mở… Tên sát nhân bước
vào.
Má hắn đỏ rực, hai hàm răng cắn chặt làm nổi bật hai thớ thịt, bạnh đến tận vành
tai. Hai con mắt ti hí lo ngại, dữ tợn chợt như hai con mắt sói, long lanh dưới
đôi chân mày rậm và nâu.
Van Spreckdal chỉ bức tranh cho hắn
xem. Vừa nhìn, hắn tái mặt, rồi rú lên một tiếng dữ dội làm tất cả chúng tôi
lạnh người. Đôi cánh tay vạm vỡ của hắn gạt bung mấy tên lính ra. Rồi hắn nhảy
lùi ra đằng sau mấy bước.
Một cuộc xung đột ác liệt diên ra ở hành lang. Người
ta chỉ nghe tiếng thở hổn hên của tên đồ tê, những lời nói ngắn ngủi và tiếng
chân của lính gác đổ lên. Cuối cùng là tiếng rơi nặng nề xuống sàn gạch.
Cuộc xung đột xảy ra hơn một phút.
Sau đó, tên sát nhân bước vào phòng,
đầu cúi xuống mắt đầm đìa máu, tay bị trói thúc ra sau lưng. Hắn ngước nhìn bức
tranh lần nữa, ra dáng suy nghĩ lung lắm, rồi nói nho nhỏ như nói với chính
hắn:
- Làm sao lại có người trông thấy mình vào lúc nửa đêm?
Vậy là tôi thoát chết! (Erckman Chatrian)