Chiếc hòm gỗ bí mật (kỳ cuối)
Chiếc hòm gỗ bí mật (kỳ chót)
0
Chuyện Cấm Cười sưu tầm
(Kỳ cuối)
Vào lúc ấy mọi người ngạc nhiên khi thấy họa sĩ C bình tĩnh đứng lên đề nghị với thuyền trưởng cho chuyển cái hòm bí ẩn của chàng xuống xuồng.
- Hãy ngồi xuống, ông C! Thuyền trưởng trả lời với thái độ nghiêm nghị. - Ông muốn cho xuồng lật úp, hắt tất cả chúng tôi xuống biển hay sao mà không ngồi?
- Mép xuồng của chúng ta chẳng đã chạm sát mặt nước rồi đó sao?
- Cái hòm ấy - C vẫn đứng và la hét hốt hoảng - Xin giữ lại cái hòm ấy, thuyền trưởng? Ngài không thể.... ngài sẽ không khước từ lời khẩn cầu của tôi chứ? Cái hòm ấy quan trọng đối với tôi biết chừng nào? Thả chìm cái hòm ấy là hết, là hết....Xin ngài hãy nghĩ đến tình cảm sâu nặng của những người mẹ. Xin nghĩ tới Thượng đế Xin hãy rủ lòng thương.....Tôi cầu khẩn ngài giữ lại cái hòm!
Thuyền trưởng, lúc đầu im lặng vì dường như cũng cảm động trước những lời cầu xin tha thiết của C, nhưng sau đó ông điềm tĩnh đáp lại bằng giọng nói nghiêm nghị cứng rắn:
- Ông C! Ông hoàn toàn mất trí! Hãy tỉnh ngộ! Không thể theo ý ông được! Hãy ngồi xuống ông làm đắm xuồng bây giờ! Hãy đứng yên! Giữ lấy anh ta! Tóm chặt lấy? Nước trào vào xuồng! Đấy, anh ta muốn nhảy ra khỏi xuồng! Anh ta nhảy đấy!
Thuyền trưởng vừa dứt lời thì C đã nhảy ra khỏi xuồng, túm lấy sợi dây chão buộc nối xuồng với tầu. Bằng sự nổ lực phi thường, anh ta đã lần được tới đuôi tầu rồi leo theo đường dây xích lên tầu. Thái độ của anh ta biểu lộ một sự cuồng nộ mãnh liệt đến tột cùng. Anh nhảy bổ đến cabin liền kề với phòng riêng của mình trên tầu.
Xuồng chúng tôi lúc này ở phía sau tầu, rất dễ bị lật úp, vì cơn bão vẫn chưa chấm dứt. Chúng tôi tháo dây cho xuồng trôi tự do, may thay nó vẫn giữ được thăng bằng, nên mặc dù mép thuyền sát với mặt nước, nhưng không bị nước ùa vào. Chiếc xuồng nhỏ chẳng khác gì một cái lông chim bị gió bão đẩy đã vượt lên trước mũi tầu trong chốc lát và nhờ vậy, chúng tôi đã thoáng nhìn thấy, dù chỉ là trong khoảnh khắc những giây phút cuối cùng của chàng họa sĩ mà dường như định mệnh đã an bài. Gió đẩy xuồng vượt qua con tầu, chúng nhận ra người họa sĩ đau khổ ấy - lúc đó như một người điên - bị kích thích bởi sự cuồng nộ, và dường như sự cuồng nộ đã đem cho anh ta một sức mạnh phi thường, đủ sức kéo chiếc hòm bí ẩn lên boong tầu. Từ cái xuồng ngoái nhìn lại chúng tôi thấy anh lấy một sợi dây thừng, trước tiên quấn nhiều vòng quanh chiếc hòm gỗ bí ẩn, sau đó lại quấn quanh thân mình, cột chặt vào với chiếc hòm rồi cùng lao xuống biển. Hòm và người lập tức chỉm nghỉm và cùng nằm lại vĩnh viễn trong lòng đại dương.
Chúng tôi xúc động thương cảm cho người họa sĩ trẻ, tay rời rã trên mái chèo của mình. Một lát sau, chúng tôi chèo xuồng đi, mọi người đều ngậm ngùi lặng lẽ hàng tiếng đồng hồ, chẳng ai nói lấy một lời.. Cuối cùng tôi mạnh dạn nêu lên nhận xét của mình:
- Thưa thuyền trưởng, ngài có nhận thấy cái hòm đã chìm nghỉm quá nhanh không? Đó chẳng phải là điều lạ lùng sao? Thú thật tôi chẳng thể tự giải đáp nổi là vì sao anh ta đã tự buộc thân mình liền vào cái hòm rồi lao xuống biển tự vận như vậy?
- Cái hòm và anh ta cùng chìm nghỉm như hòn đá là điều tất nhiên, - thuyền trưởng đáp. - Nhưng rồi ... họ sẽ nổi lên, tuy nhiên.... phải chờ cho muối tan hết trong nước.
- Muối?? - Tôi kêu lên.
- Suỵt! Hãy im lặng! - Thuyền trưởng chỉ vào người vợ và hai người em gái của C. - Các vị hãy hỏi mấy người thân của họa sĩ vào lúc thích hợp.
Chúng tôi nghe theo lời thuyền trưởng, im lặng nén chịu, tập trung vào việc chèo lái thuyền để thoát hiểm. May mắn thay số phận đã giúp chúng tôi tai qua nạn khỏi. Trong tình huống cái chết cầm chắc cả mười phần chẳng còn chút hy vọng nào, đói khát mệt mỏi như người đã chết, sau 4 ngày vật lộn, chúng tôi đã cập được bờ một hòn đảo. Ở đó chúng tôi được đối xử như những người gặp nạn đắm tàu, được cứu trợ và giúp đỡ để đi tới Nữu Ước.
Khoảng một tháng sau cái ngày con tầu Độc Lập bị đắm, tôi tình cờ gặp lại thuyền trưởng. Trong lúc trao đổi chuyện trò, tất nhiên chúng tôi nhắc đến cái tai họa đã gặp, và đặc biệt là nhắc đến số phận buồn thảm của người bạn đáng thương của tôi. Qua thuyền trưởng, tôi được biết thêm một số tình tiết mà trước kia những người trong cuộc đã giữ kín không nói ra. Nghe xong câu chuyện thương tâm, tôi mới hiểu được vì sao họa sĩ C đã phát điên lên như vậy.
Họa sĩ C mua vé cho chuyến vượt biển cùng gia đình. Phu nhân C quả thật là một tiểu thư xuất thân từ một gia đình quý tộc lá ngọc cành vàng, duyên dáng và có học thức, đúng như họa sĩ C thường kể với bạn bè. Vào sáng ngày 14 tháng 6 (ngày mà tôi thăm tầu lần đầu như phần trên tôi đã kể) tiểu thư ốm đột ngột rồi chết. Người chồng trẻ đau buồn đến như rồ dại. Trong tình huống anh buộc phải đến Nữu Ước có công việc, anh suy nghĩ và nảy ra ý định chuyển thi hài người vợ yêu quý của mình đến nơi bố mẹ vợ đang ở tòa Đại sứ ở Nữu Ước và coi đó là một yêu cầu bức thiết. Khốn thay việc chuyển thi hài trên tàu biển bị pháp luật ngăn cấm, và chẳng những thế, trong ý niệm chung người ta vốn kiêng kỵ. Mười chín hành khách trên tàu có thể bỏ chuyến đi, nếu như họ phát hiện ra tầu có chở theo xác chết.
Trong tình thế cấp bách, tiến thoái lưỡng nan, trước lời cầu khẩn tha thiết của C, thuyền trưởng Henry mũi lòng đồng ý cho anh thỏa nguyện với điều kiện bắt buộc anh phải đặt xác vào một quan tài lớn, ướp xác bằng một lượng muối lớn giữ cho thi hài không bị bốc mùi và phân hủy. Quan tài chuyển xuống tầu được ngụy trang dưới dạng hành lý đặc biệt, phải đóng sao cho người ta có thể tin được là hàng hóa. Tất nhiên phải tuyệt đối không tiếc lộ về cái chết của phu nhân. Mọi việc diễn ra như lời thuyền trưởng. Ông còn gợi ý cho C tìm một người khác mạo nhận là phu nhân để khỏi phải sửa lại danh tính hành khách trên tầu. Và chính người đầy tớ của phu nhân đã được chọn để đóng vai này. Căn buồng lớn bên ngoài nơi đặt "hòm hành lý:, vốn được giữ cho người tớ gái, vẫn giữ nguyên như cũ. Chính nơi đây, người đóng giả phu nhân C ngủ ban đêm còn ban ngày thì tùy cơ ứng biến với vai diễn của mình. Do mọi việc bố trí chu đáo như vậy, nên đã không làm cho hành khách trên tầu nghi ngờ.
Riêng về phần mình, tôi cảm thấy ân hận vì đã vội vàng nghi ngờ người bạn - cho dù sự nghi ngờ đó chẳng phải vô căn cứ. Tôi tự trách mình thiếu thận trọng, đã nghi oan cho bạn nên đã có những ý nghĩ xấu và có thái độ khôi hài không đúng đắn để chế giễu nỗi đau của bạn. Cho tới mãi về sau này, cứ mỗi lần nghĩ đến cái tính đa nghi nông nỗi ấy, tôi chẳng thể ngủ được vì ân hận. Chính sự biết ăn năn hối lỗi đó đã giúp tôi rèn luyện được tư cách và phẩm chất của bản thân trong quãng đời còn lại. Cũng từ ngày ấy, tiếng cười và mọi lời nhạo báng người khác một cách độc ác đã vĩnh viễn còn có cơ hội lọt vào tai tôi nữa.